LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết một bài văn thuyết minh về bác Phạm Văn Đồng

Viết một bài văn thuyết minh về bác Phạm Văn Đồng
ko chep mang

5 trả lời
Hỏi chi tiết
2.847
3
0
Kẻ Bí Ẩn
02/02/2020 11:13:17
     Đồng chí Phạm Văn Đồng còn là người cộng sản kiên cường mẫu mực, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; nhà văn hóa lớn của dân tộc, con người rất mực trung thành, suốt đời chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân.Đồng chí Phạm Văn Đồng, bí danh là Tô, sinh ngày 1/3/1906 trong một gia đình công chức tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Đồng chí mất ngày 29/4/2000, tại Thủ đô Hà Nội.Người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Vào những năm đầu thế kỷ XX, khi còn là một thanh niên, đồng chí Phạm Văn Đồng đã sớm giác ngộ cách mạng, đã biết đến Nguyễn Ái Quốc và tìm hiểu tư tưởng cách mạng của Người thông qua sách báo được truyền bá vào Việt Nam lúc bấy giờ như: báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Tạp chí thư tín quốc tế”…Năm 1924, đồng chí được xem tấm ảnh của Nguyễn Ái Quốc từ Pháp gửi về. Với trí thông minh, sự nhạy bén của tư duy, Phạm Văn Đồng vô cùng khâm phục, ngưỡng mộ Nguyễn Ái Quốc. Hình ảnh Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động của Người đã hấp dẫn và thuyết phục Phạm Văn Đồng tiếp cận với những tư tưởng cũng như con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra.Năm 1926, đồng chí được sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và trực tiếp giảng dạy. Đây là một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Phạm Văn Đồng. Đồng chí đã nhanh chóng tiếp thu những tư tưởng mới-con đường cách mạng vô sản, và được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội.Cũng từ đó, đồng chí có điều kiện gặp gỡ nhiều hơn với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Ý chí cách mạng, lý tưởng cộng sản và tinh thần yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm và lý tưởng của Phạm Văn Đồng, biến đồng chí từ một thanh niên yêu nước trở thành một chiến sĩ cách mạng chân chính.Đầu năm 1940, khi Nguyễn Ái Quốc ở Côn Minh (Trung Quốc) chuẩn bị về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì đồng chí Phạm Văn Đồng được gặp Nguyễn Ái Quốc và được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao phó những nhiệm vụ quan trọng. Cũng từ đây, bắt đầu một thời kỳ dài gần 30 năm (cho tới khi Bác mất) đồng chí Phạm Văn Đồng được thường xuyên làm việc bên Bác, theo sự chỉ dẫn và phân công của Bác.Là một trong những cán bộ tiền bối, được Bác Hồ trực tiếp giáo dục và rèn luyện, đồng chí Phạm Văn Đồng đã trở thành người học trò xuất sắc, một cộng sự gần gũi và thân thiết của Bác Hồ. Đồng chí thể hiện những phẩm chất cao quý của một người cộng sản trung kiên, mẫu mực, đó là đức tính: Tận tuỵ với nước, tận hiếu với dân; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân; Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; chống quan liêu, tham ô, lãng phí; nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, nhân cách; có tấm lòng nhân ái, bao dung…Đồng chí Phạm Văn Đồng đã viết 4 tác phẩm xuất sắc về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Hồ Chí Minh-Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” (1990); “Hồ Chí Minh, quá khứ hiện tại và tương lai” (1991); “Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh” (1993); “Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh” (1998).Người cộng sản kiên cường, mẫu mực, suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Trong suốt 15 năm đầu đi theo con đường cách mạng (1926-1940), lúc bị bắt, bị giam cầm tại ngục tù Côn Đảo cũng như lúc hoạt động bất hợp pháp, bán hợp pháp, hay hợp pháp, công khai, đồng chí Phạm Văn Đồng luôn vượt qua mọi khó khăn, gian nguy, mang hết nhiệt tình, tài năng và trí tuệ của mình cống hiến cho cách mạng với niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.Trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến tháng 1/1949, đồng chí Phạm Văn Đồng là Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung Bộ. Tại đây, đồng chí đã có những cống hiến và sáng tạo trong việc xây dựng vùng tự do Nam-Ngãi-Bình-Phú, xây dựng và củng cố căn cứ địa kháng chiến, thực hiện khẩu hiện tự lực cánh sinh, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Đồng chí còn chỉ đạo việc thành lập và trực tiếp giảng dạy tại Trường Trung học Bình dân Nam Trung Bộ.Đầu năm 1959, đồng chí được điều động trở lại công tác tại Việt Bắc được bổ sung làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, sau đó là Phó Thủ tướng Chính phủ. Từ năm 1951 đến 1986, được bầu vào Bộ Chính trị. Từ năm 1955 đến 1987, đồng chí được Đảng và Nhà nước giao trọng trách Thủ tướng Chính phủ.Đồng chí còn kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng trong những năm 1954-1955. Trong thời gian từ 1986-1997, đồng chí là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và giữ cách sống mẫu mực của một đảng viên cộng sản chân chính theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Mấy chục năm đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành pháp, đồng chí luôn trăn trở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, xây dựng tiền đề, tạo lập và phát triển một chính quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa phù hợp với bản sắc của dân tộc Việt Nam. Trong đời sống riêng tư, đồng chí luôn là tấm gương mẫu mực về một người cán bộ lãnh đạo, tận tâm tận lực, vì dân, vì nước, liên khiết, khiêm tốn, giản dị, gần gũi với nhân dân.Tháng 5/1999, dù tuổi cao, sức khoẻ không còn sung mãn, đồng chí Phạm Văn Đồng vẫn gửi đến Tạp chí Cộng sản bài viết "Nêu cao danh hiệu Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam". Với ngòi bút sắc sảo của mình, đồng chí Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ những mặt yếu kém cần sửa chữa, khắc phục, với tinh thần thấy rõ sự thật, nói đúng sự thật, nói hết sự thật, nghiêm khắc và sắc bén làm nổi rõ những gì phải giải quyết, nêu lên những biện pháp giải quyết, thiết thực và hiệu quả.
Những lời tâm huyết từ đáy lòng của người chiến sĩ cách mạng lão thành đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng của dân tộc, đã có sức lay động con tim độc giả. Bài viết đã gây được sự chú ý của dư luận trong những ngày đầu cuộc vận động triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương VI (lần 2). Đây là một trong những lời cuối cùng của đồng chí Phạm Văn Đồng để lại cho chúng ta trước khi đi xa.Nhà lãnh đạo kinh tế giàu kinh nghiệm.Ngay từ khi đất nước giành được độc lập, ở cương vị Bộ trưởng Bộ Tài chính đầu tiên của Chính phủ mới, đồng chí đã có nhiều chủ trương sáng suốt giải quyết những vấn đề khó khăn về tài chính lúc bấy giờ. Trong cương vị Phó Thủ tướng rồi Thủ tướng Chính phủ trong hai cuộc kháng chiến, đồng chí đã lo tổ chức một bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, ít tốn kém mà có hiệu quả, tích cực phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế; đảm bảo cuộc sống của nhân dân; huy động sức người, sức của cho kháng chiến; tăng cường sức mạnh và sự an toàn hậu phương của chiến tranh; tổ chức tốt công tác chi viện cho tiền tuyến.Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng rất trăn trở trước những khó khăn của đất nước. Đồng chí đã chỉ đạo cho cán bộ đi khảo sát “khoán chui” trong nông nghiệp ở Hải Phòng. Đồng chí trực tiếp làm việc với cán bộ lãnh đạo Hải Phòng và kết luận cái được, cái chưa được trong cơ chế khoán này. Đó là tiền đề cho Chỉ thị của Đảng về khoán hộ trong nông nghiệp ở thời kỳ đổi mới, một cứu cánh cho nền nông nghiệp nước nhà.Cũng thời gian này, đồng chí đã đồng ý cho Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp mới trong cơ chế sản xuất công nghiệp và từng bước tổng kết. Từ đó đã ra đời các Quyết định 25/CP và 26/CP của Chính phủ, mở ra cơ chế mới trong sản xuất kinh doanh, từng bước xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Đó là những bước đầu của tư tưởng đổi mới.Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đồng chí Phạm Văn Đồng khẳng định: Đổi mới là xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là dân giàu, là xây dựng một nền văn hóa mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Với phong cách làm việc biết gắn kết chặt chẽ giữa tư duy lý luận sắc bén với thực tiễn sinh động, đồng chí đã thể hiện là một người lãnh đạo kinh tế đổi mới, người quản lý thông thái, đầy năng động và sáng tạo.Đồng chí rất nghiêm khắc đòi hỏi ở bản thân và mọi người phải làm việc thực sự có hiệu quả, năng suất, chất lượng; phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí. Những năm 1976-1985, ở cương vị lãnh đạo, xây dựng nền kinh tế trên phạm vi cả nước, đồng chí đã lo tập trung giải quyết những vấn đề trọng yếu, cấp thiết của đất nước ở tầm vĩ mô nhằm thực hiện tốt các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.Nhà văn hóa lớn của dân tộcĐồng chí Phạm Văn Đồng luôn luôn quan tâm sâu sắc đến văn hóa, có nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói về lĩnh vực tư tưởng-văn hóa. Đồng chí luôn nhấn mạnh văn hóa là phải đổi mới, đổi mới là văn hóa. Tư tưởng của đồng chí về văn hóa và đổi mới được thể hiện trong cuốn sách “Văn hóa và đổi mới”.Đó là tác phẩm có giá trị lớn cả về khoa học và thực tiễn, đặt ra hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết từ kinh tế đến xã hội, chính trị, tất cả đều gắn với văn hóa, mà quan điểm bao trùm và xuyên suốt là những quan điểm coi văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Đồng chí cũng chỉ ra những xu thế đổi mới, những ý tưởng sáng tạo trong chỉ đạo các hoạt động văn hóa. Những quan điểm của đồng chí về văn hóa chính là sự tiếp nối mang tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.Là người đứng đầu Chính phủ trong nhiều năm, là Chủ tịch Uỷ ban Cải cách giáo dục Trung ương, đồng chí Phạm Văn Đồng luôn quan tâm sâu sắc tới sự nghiệp giáo dục đào tạo. Quán triệt sâu sắc quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo con người “vừa hồng, vừa chuyên”, đồng chí Phạm Văn Đồng yêu cầu ngành giáo dục phải phấn đấu thực hiện phương châm giáo dục toàn diện, có đức dục và trí dục.

Đồng chí là người rất sâu sát, chí tình với giới tri thức, văn nghệ sĩ. Phương châm hoạt động của đồng chí nêu lên cho các nhà văn hóa là “hiểu biết, khám phá và sáng tạo”. Khẳng định vị trí quan trọng của văn học, nghệ thuật trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Nhà ngoại giao xuất sắc

Trên lĩnh vực đối ngoại, đồng chí Phạm Văn Đồng là một nhà ngoại giao tài năng, có uy tín lớn trên thế giới; nhìn xa thấy rộng, tinh tế và linh hoạt, kiên cường và mềm dẻo, ứng xử nhanh nhạy, sáng tạo, luôn thể hiện lập trường chính trị sáng suốt trước mọi diễn biến của thời cuộc và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.

Đồng chí Phạm Văn Đồng là Trưởng đoàn Việt Nam tham dự nhiều Hội nghị quốc tế, giải quyết những vấn đề không chỉ của Việt Nam mà còn liên quan đến nhiều nước, nhiều phong trào ở khu vực và quốc tế. Đó là Hội nghị Phôngtennơblô (1946), Hội nghị Geneva (1954), Hội nghị các nước Á-Phi họp ở Băngđung-Inđônêxia (1955), các Hội nghị cấp cao của Phong trào không liên kết…

Trong những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng chí Phạm Văn Đồng là một trong những nhân vật chủ chốt tham gia vào việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Cuộc đời hoạt động cách mạng liên tục, sôi nổi và phong phú của đồng chí Phạm Văn Đồng là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cộng sản về học tập và thực hiện tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng chí được nhân dân Việt Nam và bạn bè thế giới yêu mến và nể trọng. Tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí được ghi vào lịch sử vẻ vang của Đảng và của dân tộc gắn liền với những sự kiện trọng đại của đất nước.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
4
0
Minh Huy
02/02/2020 11:15:15
bn chép mạng hả
1
0
Kẻ Bí Ẩn
02/02/2020 11:33:29
tự chế bạn hihi
 
4
0
4
0
tiểu kk
02/02/2020 15:19:37

Phạm Văn Đồng (1 tháng 3 năm 1906 – 29 tháng 4 năm 2000) là Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1976 (từ năm 1981 gọi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) cho đến khi nghỉ hưu năm 1987. Trước đó ông từng giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 đến năm 1976.

Phạm Văn Đồng là vị Thủ tướng Việt Nam tại vị lâu nhất (1955 – 1987) và là học trò, cộng sự thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông có tên gọi thân mật là ,[2][3][4] đây từng là bí danh của ông.[5][6][7] Ông còn có tên gọi là Lâm Bá Kiệt khi làm Phó chủ nhiệm cơ quan Biện sự xứ tại Quế Lâm (chủ nhiệm là Hồ Học Lãm).

  • Phạm Văn Đồng sinh ra ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
  • Ông tham gia phong trào bãi khóa chống Pháp của học sinh, sinh viên năm 1925, khi Phan Châu Trinh mất. Năm 1926, ông sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đến năm 1929, ông được cử vào Kỳ bộ Nam Kỳ, rồi vào Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và tham gia đại hội của tổ chức này họp ở Hồng Kông. Tháng 7 năm 1929, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo.
  • Năm 1936, Phạm Văn Đồng ra tù, hoạt động ở Hà Nội. Năm 1940, ông bí mật sang Trung Quốc cùng với Võ Nguyên Giáp, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về nước xây dựng căn cứ địa ở biên giới Việt – Trung.
  • Năm 1945, tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, Phạm Văn Đồng được bầu vào Ủy ban Thường trực gồm 5 người thuộc Ủy ban Dân tộc giải phóng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.

    Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, vào ngày 16 tháng 8 năm 1945, Phạm Văn Đồng được giữ chức Bộ trưởng Tài chính. Tuy nhiên ông để lại dấu ấn nhiều trong lĩnh vực ngoại giao.

    Ngày 2 tháng 3 năm 1946 tại Hà Nội, ông được bầu làm Phó Trưởng ban Thường vụ Quốc hội (khóa I).


    Thủ tướng Phạm Văn Đồng (áo đen), đi sau chủ tịch Hồ Chí Minh ở thủ đô Paris, Pháp, 1946.

    Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Phạm Văn Đồng là Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Fontainebleau (Pháp)[8] thay cho Nguyễn Tường Tam không nhận nhiệm vụ, nhằm tìm một giải pháp độc lập cho Đông Dương. Tuy nhiên, hội nghị này thất bại do Pháp không trả lời dứt khoát về việc ấn định thời hạn thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ.

    Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông được cử làm Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ. Năm 1947 ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (Uỷ viên chính thức từ năm 1949). Từ tháng 7 năm 1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng duy nhất.

    Tại Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương/Đảng Lao động Việt Nam lần thứ hai năm 1951, Phạm Văn Đồng trở thành Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng.

    Năm 1954, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Genève về Đông Dương. Những đóng góp của đoàn Việt Nam do ông đứng đầu là vô cùng quan trọng, tạo ra những đột phá đưa Hội nghị tới thành công. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp rất căng thẳng và phức tạp, với tinh thần chủ động và cố gắng của phái đoàn Việt Nam, ngày 20/7/1954, bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Campuchia và Lào đã được ký kết thừa nhận tôn trọng độc lập, chủ quyền, của nước Việt Nam, Lào và Campuchia.

    Tháng 9 năm 1954, Phạm Văn Đồng kiêm chức Bộ trưởng Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Từ tháng 9 năm 1955, ông là Thủ tướng Chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và từ năm 1976 là Thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng cho đến khi về hưu năm 1987. Ông cũng liên tục là đại biểu Quốc hội từ năm 1946 đến năm 1987.

    Trong thời gian làm thủ tướng chính phủ, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Văn Linh là người đã giải oan cho đạo diễn Trần Văn Thủy trong sự kiện về bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai.[9]

    Tại Đại hội Đảng lần thứ V đã bầu Phạm Văn Đồng vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Uỷ viên Bộ Chính trị.[10]

    Phạm Văn Đồng là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12 năm 1986 đến 1997. Ông cùng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười đã tham gia cuộc gặp không chính thức với lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô tháng 9 năm 1990 nhằm bình thường hóa mối quan hệ giữa hai nước sau hơn 10 năm căng thẳng và xung đột.

    Ngày 21 tháng 8 năm 1998, thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định số 746/QĐ – TTg bổ nhiệm ông làm chủ tịch danh dự Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam

    Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng của Việt Nam và nhiều huân chương khác của Liên Xô, Lào, Campuchia, Cuba, Bulgaria, Ba Lan và Mông Cổ.

    Từ đầu thập niên 80 thế kỷ XX, do bị teo dây thần kinh đáy mắt nên mắt ông bắt đầu mờ dần.[11]

    Phạm Văn Đồng mất tại Hà Nội ngày 29 tháng 4 năm 2000, hưởng thọ 94 tuổi.

    Mẹ của Phạm Văn Đồng là cụ Nguyễn Thị Tuân.[12]

    Phạm Văn Đồng có vợ là bà Phạm Thị Cúc (sinh năm 1922, kém ông 16 tuổi)[13] và một người con trai duy nhất tên là Phạm Sơn Dương (sinh năm 1951)[14], hiện là thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, phó giám đốc Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự[15][16][17]. Sau khi lấy bà Cúc (tháng 10 năm 1946) Phạm Văn Đồng vào công tác trong liên khu 5. Mấy năm sau bà Cúc được phép vào Nam sống với chồng. Vào đến nơi thì Phạm Văn Đồng lại được lệnh ra Bắc. Sau đó bà Cúc bị bệnh "nửa quên nửa nhớ" (theo lời của Việt Phương, người từng làm thư ký cho Phạm Văn Đồng trong 53 năm) kéo dài cho đến tận bây giờ. Phạm Văn Đồng từng đưa bà Cúc sang Trung Quốc, Liên Xô chữa bệnh nhưng vẫn không khỏi. Phạm Văn Đồng mất trước bà Phạm Thị Cúc.[18][19] Bà Phạm Thị Cúc mất lúc 10 giờ 45 phút sáng ngày 15 tháng 10 năm 2018, hưởng thọ 96 tuổi.[20]

    Phạm Sơn Dương có vợ là Minh Châu và hai người con: con trai Quốc Hoa, con gái Quốc Hương. Tên của Quốc Hoa và Quốc Hương là do Phạm Văn Đồng đặt, ý là "hoa, hương của đất nước".[21]

     

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư