2. Kĩ năng quan sát, ghi chép
Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là con người và cuộc sống của con người. Có thể coi đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp và sống động đang diễn ra quanh ta, thay đổi từng ngày từng giờ. Tuy vậy, không phải tự nhiên mà ta hiểu và nắm vững được đặc điểm của từng sự việc, từng sự vật, từng con người để miêu tả đúng bản chất của nó. Vì vậy, phải quan sát, ghi chép.
Đối với các nhà văn, kĩ năng quan sát đóng một vị trí hết sức quan trọng, thậm chí được coi là yếu tố khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác cũng như quyết định cho sự thành công của quá trình miêu tả hiện thực cuộc sống. Không thể ngồi trong bốn bức tường, chỉ dùng trí tưởng tượng để mà dựng lại những bức tranh về thiên nhiên, loài vật và con người. Trí tưởng tượng dù có phong phú đến bao nhiêu cũng không thể nào sánh được với hiện thực cuộc sống. Ngay cả những câu chuyện thần thoại – sản phẩm được tạo nên bằng trí tưởng tượng của người xưa – suy cho cụng cũng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, mang bóng dáng và hơi thở của cuộc sống.
Quan sát để ghi nhận, để khám phá và để hiểu về thế giới quanh mình. Sau đồ mới có thể viết được. Ta hãy nghe chính nhà văn Tô Hoài – tác giả truyện Dế Mèn phiêu lưu kí – tâm sự : “… Chẳng phải chỉ vì có khiếu và thích thú trong tưởng tượng mà có thể viết được. Những chàng Dế Mèn, đại vương Ê
Ếch Cốm và thầy đồ Cóc có trở thành bầu bạn với các bạn đọc là do một hoàn cảnh thực tế thời niên thiếu tôi đã được sống. Trước cổng làng tôi có một bãi sông, trên bãi ấy đã sinh hoạt một thế giới rất nhiều cây cỏ và các loài vật cho chúng tôi đùa chơi với. Những con giống trong Dế Mèn phiêu lưu kí mà tôi có miêu tả được sự hoạt động, tính nết và “phong tục” của chúng, là do tôi có nghịch, có bè bạn thân thiết với chúng‘nhiều. Thực tế ấy, thơ mộng ấy khơi nguồn cho tôi viết. Chứ không phải chỉ có khiếu viết văn. Cái khiếu có tạo ra các nhân vật ấy đâu !” (Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, Sđd). Còn nhà văn Vũ Tú Nam cũng bày tỏ kinh nghiệm của mình : “Tôi đã say mê chơi các loài dế từ ngày ấy, để bốn mươi năm sau tôi có đủ tình yêu và sự hiểu biết để viết Dế chọi và Ong bắt dế. Những cây gạo cao lớn bên vườn rau của mẹ tôi khi xưa đã giúp tôi viết Cây gạo. Tôi đã bắt con bọ ve, thả trong màn, thức rất khuya để quan sát nó lột. Cũng như tôi đã nuôi cơn bọ ngựa cái sắp đến ngày sinh, theo dõi từ khi nó đẻ đến khi trứng nở ra hàng đàn bọ ngựa xinh xinh… Từ đó mà có thể viết được Đêm hề và Cái trứng bọ ngựa…” (Vũ Tú Nam – Văn miêu tả và kể chuyện). Qua những lời tâm sự ấy, ta có thể thấy được thái độ làm việc nghiêm túc của- các nhà văn đối với công việc sáng tác nghệ thuật.
Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả, kĩ năng quan sát và ghi chép cũng rất cần thiết. Tất nhiên, các em không thể có ngay được kĩ năng ấy và sử dụng nó thành thạo như các nhà văn vẫn làm. Tất cả đều mới ở bước đầu tập dượt: tập quan sát, tập ghi chép, tập phát hiện ra những đặc điểm của các sự vật, hiện tượng quanh mình. Từ đó cỏ vốn để làm văn miêu tả. Nhưng trong thực tế, các em hay bỏ qua kĩ năng này. Thông thường, các em làm văn ở lớp (rất ít bài làm ở nhà). Ngồi giữa bốn bức tường của lớp học, xung quanh chỉ có thầy cô giáo, bạn bè, bảng đen, bàn ghế mà phải làm những bài văn tả cảnh biển, cảnh cánh đồng lúa chín, cảnh một buổi lao, động,… thì quả là không có gì để quan sát trực tiếp. Thế mới xảy ra tình trạng bịa đặt hình ảnh trong bài làm, khiến cho những hình ảnh miêu tả ấy thiếu tính chân thực, thậm chí hết sức vô lí. Chẳng hạn như câu tả “Đêm cuối tháng, cả bầu trời vằng vặc ánh trăng, chi chít muôn ngàn vì sao lấp lánh, lấp lánh” (“Đêm cuối tháng” thì làm gì có trăng ! Mà những hôm “trăng sáng vằng vặc” thì lấy đâu ra “muôn ngàn vì sao chi chít” !). Hoặc có em lại tả “Con lợn sề có bốn cái chân như bốn cái ống điếu” (Với bốn cái chân ấy thì làm sao có thể trụ vững cho toàn bộ cơ thể to lớn của con lợn sề ?)… Chính vì những hình ảnh miêu tả vô lí ấy mà nhiều bài làm của các em bị cô giáo phê là “thiếu kiến thức thực tế”.
Vậy chúng ta có thể quan sát lúc nào ? Cách quan sát và ghi chép sao cho hợp lí ?
Qua tập hợp, khảo sát một số đề tập làm văn mà giáo viên trung học cơ sở thường sử dụng, ta có thể thấy rằng số đề bài đề cập tới những hình ảnh miêu tả xa lạ với cuộc sống của các em rất ít (Ví như yêu cầu học sinh miêu tả một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước trong khi không phải em học sinh nào cũng có điều kiện được đi tham quan ở những nơi đó, nhất là học sinh ở nông thôn, miền núi ; hoặc yêu cầu học sinh nông thôn tả cảnh hoạt động của một nhà máy, yêu cầu học sinh thành phố tả những công việc đồng áng ngày mùa,…). Đa số đối .tượng miêu tả trong các bài văn mà giáo viên yêu cầu các em viết thường là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống : hình ảnh cô giáo, hình ảnh một bạn học sinh, không khí giờ ra chơi, con đường tới trường, buổi bình minh,… Tuy vậy, các em học sinh vẫn tỏ ra lúng túng khi làm bài. Và kết quả cho ra đời những bài văn nghèo nàn về nội dung ý nghĩa, thiếu sức thuyết phục. Nguyên nhân là do các em ít quan sát, không có thói quen để ý các sự vật, sự việc, hiện tượng quanh mình. Nói đúng hơn là có nhìn mà không thấy, có nghe mà không cảm nhận. Muốn khắc phục tình trạng này, các em học sinh phải tập thói quen quan sát hằng ngày. Quan sát và tự đặt ra những câu hỏi để giải đáp, nhằm tìm hiểu và khắc sâu vào trí nhớ những hình ảnh về cuộc sống xung quanh. Hãy xem hai bên đường ta đi học có những gì ? Cây cối, cảnh vật ra sao ? Cảnh về mùa đông khác với cảnh về mùa hè, cảnh buổi sáng khác với cảnh buổi chiều ở chỗ nào ? Hay hãy quan sát em bé tập đi mà xem : Nó độ bao nhiêu tháng tuổi ? Gương mặt và hình dáng như thế nào ? Từng động tác tập đi ra sao ?… Tất cả những điều ta quan sát và ghi nhận được cần phải chép lại vào một cuốn sổ tay. Không cần ốhép dài dòng, chỉ điểm qua những nét chính, ngắn gọn. Sẽ rất thành công nếu khi quan sát chúng ta có được những phát hiện bất ngờ. Những phát hiện này sẽ là điều kiện giúp cho bài làm của các em thêm sáng tạo và độc đáo.
Có thể một số em sẽ nêu thắc mắc : Những đối tượng không xuất hiện trực tiếp hằng ngày trong cuộc sống của các em thì làm sao có thể quan sát ? ở miền núi lấy đâu ra biển ? Ở đồng bằng lấy đâu ra rừng ? Vùng sản xuất nông nghiệp lấy đâu ra nhà máy, công xưởng ?… Khắc phục điều này không khó. Chúng ta có nhiều nguồn để thu thập kiến thức thực tế cho mình. Chẳng hạn như quan £át qua những hình ảnh trên chương trình truyền hình, quan sát qua những bức tranh (ảnh), đọc những tác phẩm văn học có nghệ thuật miêu tả đặc sắc,… Từ nhiều nguồn khác nhau đó, chúng ta chắc chắn sẽ có một vốn kiến thức thực tế hết sức phong phú.
a) Kĩ năng tưởng tượng
Có thể khẳng định rằng nếu không có kĩ năng tưởng tượng thì bài văn miêu tả chắc chắn sẽ không thể hay được, dù là văn tả thực. Làm nghệ thuật nói chung và viết văn miêu tả nói riêng không thể chấp nhận kiểu sao chép hiện thực cuộc sống một cách máy móc, khô cứng. Nếu chỉ quan sát và ghi chép vào bài làm đúng y nguyên những điều đã quan sát thì bức tranh được, miêu tả trong bài văn sẽ quá trần trụi, thiếu sức hấp dẫn. Vì vậy, cần tưởng tượng và sáng tạo thêm để bổ sung những hình ảnh phù hợp, làm cho bức tranh miêu tả trở nên phong phú và sinh động hơn.
Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Tô Hoài không thể xây dựng được một bức tranh phong phú về thế giới loài vật như trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí.
Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Vũ Tú Nam không thể viết được trang văn miêu tả cảnh thay đổi kì diệu của màu nước biển trong Biển đẹp.
Vậy khi làm văn miêu tả, trí tưởng tượng được dùng với vai trò gì ?
Có thể nói rằng vai trò của trí tưởng tượng rất lớn. Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự phong phú cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà còn giúp cho người làm văn miêu tả tìm được những từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn miêu tả hấp dẫn hơn.
Ta hãy so sánh hai đoạn vằn miêu tả sau : ,
Đoạn văn 1 : “Trên bãi cỏ sau làng, đàn bò đang gặm cỏ. Con nào con nấy hùng hục ăn một cách ngon lành, không còn để ý gì đến xung quanh. Tiếng gặm cỏ nghe rào rào. Nhìn cảnh tượng ‘ấy thật thú vị” (Bài làm của học sinh).
Đoạn văn 2 : “Con Nâu đứng lại. Cả đàn bò dừng theo. Tiếng gặm cỏ bắt đầu rào lên như một nong tằm ăn rỗi khổng lồ. Con Ba Bớp vẫn , phàm ăn tục uống nhất, cứ thúc mãi mõm xuống, ủi cả đất ra mà gặm. Bọt mép nó trào ra, trông đến là ngon lành. Con Hoa ở gần đó cũng hùng hục ăn không kém… Mẹ con chị Vàng ăn riêng ở một chỗ. Cu Tũn dở hơi, chốc chốc lại… chạy tới ăn tranh mảng cỏ của mẹ. Chị Vàng lại dịu dàng nhường cho nó, đi kiếm mảng khác” (Hồ Phương – cỏ non, trong Văn học 6, tập một, NXB Giáo dục, 2000).
Ớ đoạn văn thứ nhất, người tả chỉ dùng những câu văn tả thực hoàn toàn giới thiệu cảnh đàn bò gặm cỏ. Vì thế ý không thể phong phú, và đoạn văn cũng không có sức gợi tả, gợi cảm. Nhưng ở đoạn thứ hai, tác giả Hồ Phương đã kết hợp một cách tài tình giữa hình ảnh tả thực và những hình ảnh sáng tạo nhờ trí tưởng tượng. Chính trí tưởng tượng phong phú đã giúp cho tác giả khi nghe tiếng đàn bò gặm cỏ đã liên tưởng tới âm thanh “của một nong tằm ăn rỗi khổng lồ”. Và cũng nhờ trí tưởng tượng mà tác giả đã phát hiện ra được tính cách của từng con bò qua cách gặm cỏ của chúng : Con Ba Bớp thì “ngổ ngáo”, “phàm ăn tục uống” ; con Hoa vốn “tiểu thư yểu điệu” nhưng cũng không cưỡng lại được sức hấp dẫn của bãi cỏ non, “hùng hục ăn không kém”cu Tũn như một chú bé con dở hơi, tinh nghịch, nũng nịu ; chị Vàng đúng là một người mẹ dịu dàng, quen nhường nhịn,… Nghệ thuật so sánh kết hợp với nhân hoá đã làm cho hình ảnh đàn bò gặm cỏ hiện lên thật sống động dưới ngòi bút miêu tả sáng tạo của nhà văn Hồ Phương.
c) Kĩ năng so sánh
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng. Khi quan sát một đối tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ kích thước tới trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ tới những hình ảnh khác có cùng một nét tương đồng nào đấy. Chính sự liên tưởng, so sánh này làm cho trang văn miêu tả hay hơn, và đối tượng miêu tả hiện lên rõ hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Nếu xét về đối tượng, hiện tượng so sánh trong văn miêu tả hết sức đa dạng và phong phú :
Có thể so sánh người với người : “Với gương mặt phúc hậu và mái tóc bạc trắng, trông bà hệt như một bà tiên trong truyện cổ tích” ; ” Nhìn nó chăm chỉ làm việc giúp bà, ai cũng tấm tắc : Hệt như cô Tấm trong truyện cổ tích xưa”…
Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách) : “Lão ta quá ranh mãnh, xảo quyệt, y như một con cáo già” ; “Trông anh ta như một con gấu ” ; “Cậu ấy nhanh như một con sóc”…
Có thể so sánh người với cây cối : “Chấm cứ như một cây xương rồng” (Đào Vũ – Cái sân gạch); “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ lớn lên từ bùn đất”…
Có thể so sánh người với các hiện tượng tự nhiên : “Giọng lão ta lúc nào cũng gầm vang như sấm”; “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…
Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh : “Cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới” (Vũ Tú Nam) ; “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm vàng ai bỏ quên giữa cánh đồng lúa chúi” (theo Vích-to Huy-gô) ; “Măng chồi lên nhọn hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất luỹ mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú);
Có thể so sánh vật với con người : “Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên” ; “Cây bưởi như một người mẹ đang cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc” (Đoàn Giỏi);
Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau :
So sánh theo hướng thu nhỏ lại : “Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng giữa không trung” ; “Xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm dập dờn trên mặt biển” ;
So sánh theo hướng phóng đại lên : “Rệp bò lổm ngổm như xe cóc – Muỗi lượn nghênh ngang tựa máy bay” (Hồ Chí Minh) ; “Chiếc lá tre được thả xuống dòng nước, tròng trành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của chúng tôi” ;
So sánh theo hướng cụ thể hoá : “…Từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi” (Thánh Gióng) ; “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn” (Nguyễn Tuân) ;
So sánh theo hướng trừu tượng hoá : “Nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào thân tre” (Nguyễn Tuân) ;
Tuy nhiên, khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu ý là phải biết sáng tạo, biết tìm điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ, quá sáo mòn theo kiểu : “Miệng’cười tươi như hoa”, “Những hạt sương long lanh như những hạt ngọc đính trên cánh hoa hồng”, “Cánh động lúa chín trông như tấm thảm vàng trải rộng đến chân trời”, v.v.
c) Kĩ năng nhận xét
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biểu lộ thái độ, tình cảm riêng của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả. Một nhà văn Pháp có nói : “Một trăm thân cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì thân cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa nào cũng khác nhau. Trong đời ta gặp bao nhiêu người, phải thấy ra mỗi người mỗi khác nhau, không một ai giống ai” (Dẫn theo Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả) .
Không phải chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cũng nên ý thức rõ điều này. Chúng ta có thể hiểu cụ thể thêm nữa, rằng thiên nhiên và con người xung quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay đổi không ngừng – thật vô cùng thú vị và hấp dẫn. Đâu phải chỉ có ngọn lửa này khác ngọn lửa kia, thân cây bạch dương này khác thân cây bạch dương kia mà ngay cùng một sự vật, hiện tượng ấy cũng từng phút, từng giờ thay đổi liên tục. Cũng một con đường từ nhà đến trường, nhưng sáng hôm nay ta thấy nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi khác. Cũng một cây bàng, chiều hôm trước còn trơ trui lá cành, mà chỉ sau mấy hôm đã đâm chồi nảy lộc, tràn đầy sức sống. Cũng một bãi biển, nhưng khi ta buồn ta sẽ cảm nhận nó khác khi ta đang vui… Có thể nói rằng, đối tượng miêu tả sẽ xuất hiện và đi vào bài văn tuỳ thuộc vào điểm nhìn, thái độ, tình cảm, tâm trạng cũng như tình huống tiếp xúc của người viết. Đây chính là cơ sở tạo nên dấu ấp chủ quan của người viết trong văn miêu tả. Nó đòi hỏi người viết phải bộc lộ trong tác phẩm của mình những lời nhận xét, những suy nghĩ, những cảm nhận riêng về đối tượng.
Vấn đề là phải dùng cách nhận xét như thế nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả ?
– Trước hết có thể nhận xét trực tiếp bằng những lời bình, những câu cảm thán, nhũng hình ảnh so sánh : “Chà ! Chà ! Béo ơi là béo ! “, ” Gớm ! Béo đâu có béo lạ béo lùng thế !” (Nguyễn Công Hoan) ; “Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng, nom thật đẹp (Vũ Tú Nam) ; ” A Cháng đẹp người thật… Nhưng phải nhìn Hạng *A Cháng cày mới thấy hết được vẻ đẹp của anh” (Ma Văn Kháng);
Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả. Đây là thái độ mỉa mai, giễu cợt của nhà văn Nguyễn Công Hoan khi miêu tả hình ảnh một “bà chủ” : “Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta chiưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem eất đi”. Còn đây là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn Võ Tú Nam khi quan sát và miêu tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như thổi : “Rọi quả thi nhau chòi ra… bằng ngón tay… bằng con chuột. Rồi bằng con cá chuối to…”.
2. Lưu ý về cách diễn đạt trong văn miêu tả
a) Cách dùng từ ngữ, hình ảnh
Việc lựa chọn từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết văn miêu tả trước hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích luỹ vốn từ cần được tiến hành thường xuyên và dưới nhiều hình thức : thông qua các giờ học Văn – Tiếng Việt trong nhà trường ; thông qua giao tiếp hằng ngày, thông qua quá trình đọc sách, đọc tài liệu tham khảo có liên quan tới văn miêu tả. Tất nhiên, có vốn từ phong phú chưạ hẳn đã là thành công mà điều quan trọng là người viết bài phải có sự lựa chọn tinh tường, sao cho giữa một hệ thống các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, có thể lẩy ra được một vài từ phù hợp nhất, chính xác nhất. Điều cần lưu ý là phải luôn có thói quen tìm từ gợi hình, biểu cảm và phải chọn từ ngữ phù hợp với đối tượng, với văn cảnh. Muốn làm nổi bật hình ảnh của đối tượng thì chú ý nhiều tới hệ thống từ tượng hình (tả màu sắc, hình dáng, trạng thái,…) ; muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì dùng hệ thống của từ tượng thanh (mô phỏng các. tiếng động). Bài văn miêu tả thiếu đi các từ ngữ có sức tạo hình, gợi cảm thì chắc chắn sẽ không thể hay. Nhưng cũng cần ý thức được rằng nếu dùng từ ngữ, hình ảnh tuỳ tiện hoặc khuôn sáo, bắt chước một cách lộ liễu thì cách miêu tả cũng không có sức thuyết phục.
Ví như tả cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh : cuồn cuộn, nhấp nhô, lăn tăn, rì rầm, rì rấo, lô nhô, ì oạp,… Nhưng không phải tả sóng lúc nào cũng dùng được tất cả các từ ấy. Tả sóng biển lúc trời động thì phải dùng từ cuồn cuộn ; tả tiếng sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oụp ; tả tiếng sóng biển vọng lại trong đêm mà nghe xa thì phải dùng từ rì rầm ;
Tả cây cối cũng có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau : xanh um, xanh lì, xanh non, xanh mơn mởn, xanh tươi, xanh tốt, xanh rờn,… Nhưng khi đi vào thực tế, mỗi loại cây sẽ có một màu xanh riêng, không thể lẫn lộn : cây rau cải trong vườn hay cây lúa đang thì con gái thì phải là xanh mơn mởn, xanh rờn ; cây cối trong rừng rậm rạp thì phải là xanh rì, xanh tốt, xanh um,…
Ngay cả âm thanh tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rất rõ : mưa giáo đầu thì lẹt đẹt; mưa trên mái tôn thì rào rào’; mưa đập vào phên nứa đồm độp ; mưa đập vào tàu lá chuối thì lùng bùng ; mưa từ mái giọt tranh đổ xuống sân thì ồ ồ; …
Còn từ ngữ tả dáng đi của con người cũng vô cùng phong phú, đa dạng : em bé tập đi thì lẫm chẫm ; cậu bé tinh nghịch thì có dáng đi nhún nhảy, vừa đì vừa nhảy chân sáo ; cụ già thì lom. khom ; người đang đau chân thì đi khập khà khập khiễng ; các cô gái trẻ thì yểu điệu thướt tha ; người có tâna trạng thoải mái đi thong thả ; người vất vả thì dáng đi hấp tấp, lật đật, sấp ngửa,…
Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong văn miêu tả cũng không kém phần quan trọng. Có thể thấy rõ câu văn miêu tả giàu hình ảnh bao nhiêu thì sức gợi cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu. Việc tạo hình ảnh cho câu văn miêu tả có thể thực hiện bằng nhiều cách : hoặc là bằng từ ngữ tượng hình, tượng thanh (“gấu bố, gấu mẹ, gấu con cùng béo rung rinh, bước đi lặc lè, lặc lè”) ; hoặc bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá (“Lá mía sắc như lưỡi gươm, xanh đậm” ; “Lũ trẻ đứa nào đứa nấy da cứ đen bóng như bôi nhọ mỡ” ; “Dòng sông thay chiếc áo màu xanh hằng ngày bằng dải lụa đào” ; …).
Tuy nhiên, khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật trên trong bài văn miêu tá, chúng ta cần lưu ý rằng những nghệ thuật ấy chỉ thực sự có tác dụng nếu được dùng đúng lúc, đúng chỗ, hợp văn cảnh. Ngược lại, nếu dùng những biện pháp nghệ thuật ấy một cách máy móc, sáo mòn thì nó làm giảm giá trị của bài văn miêu tả rất nhiều. Mặt khác, cũng như khi ta ăn tiệc, món ăn dù ngon đến mấy nhưng ăn quá nhiều thì sẽ chán ; trong văn miêu tả, nếu quá lạm dụng cách nói so sánh, nhân hoá mà ít tả thực thì chắc chắn cảm giác thích thú ban đầu của người đọc sẽ giảm dần, thậm chí dẫn tới sự khó chịu, nhất là khi gặp những hình ảnh so sánh, nhân hoá nhạt nhẽo, vô vị. Chẳng hạn như : “Chị gió lả lướt bay tới làm cho cả vườn cây xao động” (chỉ cần viết: “Gió thổi nhẹ làm cả vườn cây xao động”) ; “Ông mặt trời đã lên cao, nhăn nhó xua muôn ngàn tia nắng tinh quái xuống trần gian” (chỉ cần viết “Mặt trời đã lên cao, chói chang, gay gắt. Nắng như hắt lửa xuống mặt đất”), v.v.
Để thấy rõ tầm quan trọng của việc dùng từ ngữ, hình ảnh trong văn miêu tả, ta hãy so sánh hai đoạn văn có cùng nội dung miêu tả cây cối trong vườn như sau :
Đoạn 1 : “Vườn cây đang vào mùa quả chín trông thật thích mắt. Đây là cây dừa to lớn đứng uy nghi toả bóng rợp nửa khoảng vườn, từng chum quả bao quanh ngọn, nặng trĩu. Giữa vườn là những cây roi hồng. Năm nay roi cũng được mùa, quả nhiều, có những cành không còn trông thấy lá đâu. Cuối góc vườn là cây bưởi. Đây là giống bưởi mới, thân không cao, tán lá xoè rộng ra, quả to và múi dày. Ngắm vườn cây mùa này, lòng người tự nhiên thấy thư thái hơn”.
Đoạn 2 : “Vườn cây đang vào mùa quả chín trông thật thích mắt. Rợp bóng che nửa khoảng vườn là một cây dừa to lớn, đứng uy nghi. Những buồng dừa trông như những chùm bóng bay màu xanh lúc lỉu bám quanh ngọn, nặng trĩu. Quả nào quả nấy mơn mởn và lớn nhanh như thổi. Còn giữa vườn là những cây roi hồng. Năm nay roi cũng được mùa, quả sai trĩu trịt. Có những cành roi chín đỏ mọng, uốn cong, chỉ thấy quả chi chít mà không trông thấy lá đâu nữa. Nắng gắt. Rồi một trận mưa rào đổ xuống. Những trái roi căng da, mọng nước, trông càng hấp dẫn thêm. Ớ cuối góc vườn là cây bưởi đứng nép mình, lặng lẽ, cõng trên lưng lũ quả tròn trọc lóc. Đây là giống bưởi mới, thân không cao, tán lá xoè rộng. Nhưng được cái quả to và múi dày nên được nhiều người chuộng. Ngắm vườn cây mùa quả chín, không hiểu sao lòng người tự nhiên thấy thanh thản và thư thái hơn”.
Cùng một nội dung miêu tả nhưng cách diễn đạt ở hai đoạn văn hoàn toàn khác nhau. Ớ đoạn một mới chỉ dừng lại nội dung thông báo, giới thiệu đặc điểm của từng loại cây, không hề chú trọng việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh nên đoạn văn không hay, không có sức hấp dẫn. Nhưng ở đoạn thứ hai, nội dung thông báo đã được lồng trong những câu văn giàu hình ảnh với các từ láy {lúc lỉu, mơn mởn, trĩu trịt, chi chít, lặng lẽ, trọc lóc) và với cách nói so sánh, nhân hoá (những buồng dừa trông như những chùm bóng bay màu xanh, cây bưởi cõng trên lưng lũ quả tròn trọc lóc,…). Do đó, hình ảnh cây cối trong vườn hiện lên cụ thể hơn, đem lại thành công cho đoạn văn miêu tả.
b) Cách đặt câu, dựng đoạn trong văn miêu tả
Cũng như văn tự sự, cách đặt câu trong văn miêu tả đòi hỏi người viết phải linh hoạt và công phu. Có thể là câu dài với đầy đủ các thành phần chính phụ, có nhiều tầng ý nối tiếp nhau. Cũng có thể là những câu ngắn (câu đặc biệt hoặc câu tỉnh lược). Vấn đề đặt ra ở đây là phải biết chọn kiểu câu phù hợp với hoàn cảnh, với tình huống, nội dung miêu tả, và cả với cảm xúc của người miêu tả nữa.
Sau đây là một số trường hợp lựa chọn kiểu câu thường gặp :
Kiểu câu dài, nhiều tầng ý, nhiều vế nối nhau thường phù hợp với việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên êm đềm, yến ả, hoặc những hoạt động diễn ra nhẹ nhàng, liên tiếp nối nhau ; hoặc khi cảm xúc của con người đang dâng tràn, tuôn chảy,…
Kiểu câu ngắn (câu đặc biệt, câu tỉnh lược) với các dấu câu (dấu chấm than, dấu chấm hỏi, dấu chấm lửng,…) thường dùng để diễn tả những cảm xúc mạnh, những hoạt động nặng, diễn ra nhanh gọn, liên tục ; những tình huống bất ngờ…
Kiểu câu đảo ngữ : thường dùng trong những trường hợp cần nhấn mạnh một đặc điểm, một trạng thái nào đó của đối tượng được miêu tả.
Ví dụ : Tả cánh đồng quê yên ả thanh bình : cánh đồng trải ra xa tít tắp, mênh mông với sóng lúa lăn tăn gợn nhẹ, đuổi nhau chạy dài đến tận chân trời. (Câu dài)
Tả ánh trăng khuya : Trời đã về khuya, ánh trăng dường như càng sáng hơn, vằng vặc giữa vòm cao mênh mông, lặng lẽ toả ánh sáng dịu dàng và tinh khiết xuống mặt đất, huyền ảo và đẹp lạ kì. (Gâu dài)
Tả em bé đang tập đi : Cu Tí đang chập chững tập đi. Hai bàn chân bấm xuống. Hai tay dang ra để giữ thăng bằng. Một bước. Hai bước. “Uỵch”. Cu Tí khóc oà lên vì bị ngã. Mẹ vội đô Tí dậy, thơm một cái vào đôi má trắng hồng. Tí ta nhoẻn cười, nước mắt vẫn đọng trên mí. Hai bàn chân lại bấm xuống. Hai tay lại dang ra. Một bước… Hai bước… Năm bước… Mười bước… Tiếng vố tay cổ vũ của mọi người làm cho cu Tí càng phấn khởi. (Một loạt câu ngắn)
Tả hoa phượng : Trên cành cây, lác đác xuất hiện những bông hoa phượng đầu mùa. (Câu đảo ngữ)
Một điều cần lưu ý là trong cùng một bài văn miêu tả phải biết dùng đan xen nhiều kiểu câu khác nhau. Có câu dài xen câu ngắn. Có câu bình thường xen câu đặc biệt. Như vậy mới tạo được sự phong phú, đa dạng cho cách diễn đạt.
Ngoài việc đặt câu, cách dựng đoạn và liên kết giữa các đoạn trong một bài văn miêu tả cũng rất cần được quan tâm. Thông thường, khi làm văn, học sinh chia bài làm thành ba phần : Mỏ bài, Thân bài, Kết luận. Do đó, ứng với ba phần thường là ba đoạn văn. Mở bài và Kết luận ngắn, Thân bài thì dài. Dù nội dung bài văn nghèo nàn hay phong phú, dù dung lượng bài văn ngắn hay dài, dù đối tượng miêu tả ít hay nhiều, phần Thân bài cũng chỉ có một đoạn. Đây là hạn chế đáng tiếc mà ta có thể bắt gặp trong bài làm của học sinh.
Vậy có thể khắc phục hạn chế này bằng cách nào ?
Điều trước tiên là phải xác định những ý cần triển khai trong nội dung bài văn miêu tả để chia thân bài thành các đoạn văn tương ứng. Có nhiều cách để chia đoạn trong bài văn tả :
Chia đoạn theo trình tự thời gian : Người làm bài đặt đối tượng miêu tả vào các khoảng thời gian khác nhau. Trong một năm thì theo bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông (tả cây cối, cảnh vật) ; trong một ngày thì có sáng- trưa – chiều – tối (tả cảnh vật, thời tiết) ; trong một quá trình thì có bắt đầu – diễn biến – kết thúc (tả cảnh sinh hoạt), khi nhỏ – lớn lên – về già (tả con người), v.v.
Chia đoạn theo trình tự không gian : Người làm bài quan sát đối tượng miêu tả ở nhiều góc độ và từ nhiều hướng khác nhau : từ xa nhìn lại, từ ngoài nhìn vào, từ trong nhìn ra, từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên, nhìn bên trái, nhìn bên phải, nhìn phía trước, nhìn phía sau, nhìn toàn cảnh, nhìn chi tiết,…
Chia đoạn theo đặc điểm tính cách của đối tượng được miêu tả : Mỗi đặc điểm tính chất có thể được tách ra để miêu tả trong một đoạn văn độc lập. Ví như tả người nói chung có thể chia thành hai ý (hình dáng, tính tình)…
Chia đoạn theo số lượng đối tượng được miêu tả : có thể sử dụng cách chia đoạn này cho kiểu bài tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt, tả thế giới loài vật, đồ vật… Ví như tả cảnh thiên nhiên thì có : bầu trời – mặt đất ; cảnh trong vườn – cảnh ngoài đồng ; cảnh biển cả – cảnh núi rừng ; Hoặc tả không khí giờ học thì có : công việc của thầy cô giáo, công việc của học sinh ; … Tả đàn gia súc, gia cầm của gia đình thì có : bầy gà, đàn vịt, lũ trâu bò, mấy con lợn,…
Chia đoạn rồi thì phải suy nghĩ cách triển khai ý trong từng đoạn. Thông thường, nếu toàn bộ phần Thân bài triển khai trong một đoạn văn thì nhiều khi chỉ cần liệt kê cảnh cũng có thể tạo thành đoạn (dù rằng nội dung miêu tả sẽ nghèo nàn, dù rằng cách tả sẽ không hay). Nhưng khi tách phần Thân bài ra thành một số đoạn mà người viết bài không có đủ kiến thức để triển khai ỷ trong một đoạn thì những đoạn văn cụt lủn ấy sẽ làm cho bài văn trở nên rời rạc, vụn vặt, thiếu liến kết. Như vậy, thực tế này đòi hỏi người viết phải có khả năng mở rộng ý, phát triển hình ảnh miêu tả một cách phong phú và hợp lí. Thông thường có thể mở rộng ý theo một số hướng sau :
Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với những đối tượng khác. Hoặc đặt đối tượng đang miêu tả trong các mối quan hệ với những đối tượng xung quanh.
Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đường nét, hình dáng, đặc điểm của đối tượng.
Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn miêu tả những câu văn nêu cảm xúc, suy nghĩ, nhận xét.
Mở rộng ý bằng cách kết hợp miêu tả đặc điểm với những lời giới thiệu về giá trị, về công dụng của đối tượng được tả. ‘
Ví dụ : Khi làm bài văn tả cây cối trong vườn vào một thời điểm cụ thể, ta có thể chia Thân bài thành một số đoạn ứng với một số đối tượng miêu tả như sau :
Đoạn một: Tả một cây có đặc điểm tiêu biểu và gây ấn tượng nhất trong vườn (lớn nhất, đặt ở vị trí quan trọng nhất,…). Khi tả, phải giới thiệu được vị trí, miêu tả hình dáng, đặc điểm của thân, lá, rễ, hoa, quả,… tầm quan trọng của nó đối với các cây cối khác trong vườn, hoặc đối với con người. Có trường hợp cần nêu thêm lai lịch của nó (Ai trồng ? Trồng lúc nào ? Người trồng và thời điểm trồng có ý nghĩa như thế nào đối với chủ nhân của khu vườn ?).
Đoạn hai : Tả loài cây cho hoa cho hương. Liệt kê một số loài hoa (hoa nhài, hoa hồng,…), đồng thời miêu tả cụ thể vị trí, hình dảng/đặc điểm, cấu tạo của từng loại cây (thân, lá, hoa, hương vị,…).
Đoạn ba : Tả loài cây cho quả. Liệt kê một số loài cây tiêu biểu (cam, bưởi, na, ổi,…), sau đó tập trung miêu tả vị trí, quy trình ra hoa kết trái, cấu tạo, công dụng,… của từng loài cây.
Lưu ý là trong quá trình tả, có thể đặt các đối tượng được tả trên trong mối quan hệ với nắng, với gió, với chim chóc, ong bướm, với con người,… để toàn cảnh khu vườn hiện lên sống động và đẹp hơn.
c) Cách mở đầu và cách kết luận cho một bài văn miêu tả
Mô hình bố cục của một bài văn miêu tả thông thường gồm ba phần rõ rệt:
Mở bài : Giới thiệu đối tượng cần miêu tả (Đối tượng gì ? Có quan hộ như thế nào đối với người miêu tả ? Hoàn cảnh tiếp xúc gặp gỡ với đối tượng ấy có gì đặc biệt ?).
Thân bài : Lần lượt dừng lại hình ảnh hoặc khung cảnh được miêu tả với những đặc điểm chung – riêng.
Kết luận : Nêu cảm nghĩ về đối tượng miêu tả.
Theo mô hình này thì văn miêu tả chỉ mở bài bằng việc giới thiệu đối tượng và kết bài bằng cách nêu cảm nghĩ của người viết. Như vậy là quá đơn điệu, rập khuôn. Thậm chí, có một số em học sinh dùng cái khuôn chung ấy để lắp ghép cho tất cả các bài văn tả khác nhau.
Ví dụ 1 : Khi tả một cây ăn quả, thường các em hay đi theo cách mở và kết như sau : ‘
Mở bài : Trong vườn bà em trồng nhiều thứ cây ăn quả. Nhưng em thích nhất là cây bưởi đào.
Kết luận : Em rất yêu khu vườn (yêu cây bưởi đào). Hoặc Em muốn được chăm sóc cho khu vườn ngày càng tươi tốt (chăm sốc cây bưởi đào để nó tiếp tục đơm hoa kết trái ở những mùa sau).
Ví dụ 2 : Đối với đề văn “Tả một người bạn thân”, cách Mở bài và Kết luận cũng theo như ví dụ 1 :
Mở bài : Em có nhiều người bạn. Nhưng có lẽ thân thiết và gần gũi nhất vẫn là bạn X.
Kết luận : Em và X rất thân thiết, gắn bó với nhau. Chúng em tự hứa với lòng mình rằng, dù cho hoàn cảnh và điều kiện cuộc sống có thay đổi như thế nào thì tình bạn ấy vẫn không bao giờ phai nhạt.
Cứ theo kiểu lắp khuôn này thì ta sẽ có một loạt Mở bài và Kết luận na ná như nhau mặc dù đối tượng cần miêu tả có thể. không giống nhau. Để bài văn miêu tả sáng tạo hơn, ta nên chọn một số cách mở bài và kết bài khác.
Cách mở bài : Có thể mở bài bằng một lời thông báo ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề (Thạch Lam – Ngày chưa tắt hẳn, trăng đã lên rồi).
Cũng có thể mở bài bằng lời giới thiệu tình huống để đối tượng miêu tả xuất hiện. Cách mở này thường dài dòng (Ví như tả một người công nhân làm đường :
“Cái Thư, bạn tôi lạ lắm kia ! Hễ cứ ngồi với nhau là cái Thư lại kể về mẹ nó cho tôi nghe. Chẳng lần nào là nó không mở đầu bằng câu “Mẹ tớ, ấy biết không, là công nhân sửa đường đấy. Năm nào mẹ tớ cũng được bầu là Lao động tiên tiến. Tổ mẹ tớ vá đường giỏi nhất công ti. Nếu ấy được xem mẹ tớ làm việc, ấy phải thích mê đi. Này nhé ỉ…”.
Một buổi sáng, chúng tôi được đi ô tô đến chỗ tổ mẹ Thư làm việc”. (Nguyễn Thị Xuyến)
Cách kết bài : Có thể kết bài bằng một câu văn tả.
Ví dụ : Đêm đã khuya, vầng trăng càng sáng, vằng vặc trên vòm cao mênh mông như đang thao thức cùng trời đêm.
Hay : Cánh đồng lúa vẫn dập dờn, dập dờn trong gió. Hương thơm dịu dịu toả ra. Lan xa. Lan xa…
Có thể kết bài bằng một lời mở ý hoặc để lửng ý cho người đọc tự cảm nhận.
Ví dụ : Khi tả hoàng hôn trên sông Hương, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kết thúc theo kiểu này : Huế thức dậy trong nhịp chuyển động mới đi vào cuộc sống ban đầu của nó.
Hoặc lời kết mở cho bài văn tả một cầu thủ bóng đá thiếu niên : Và mỗi sáng, mỗi chiều, cậu bé có đôi chân kì diệu ấy vẫn cùng lũ trẻ chơi đùa trên bãi cỏ. Theo đôi chân cậu, trái bóng cứ lăn tròn, lăn tròn…
Cũng có thể kết bài bằng một vài lời tâm tình trực tiếp với đối tượng được miêu tả.
Ví dụ : Kết bài cho đề văn miêu tả mùa xuần : Cảm ơn mùa xuân ! cảm ơn những điều kì diệu mà trời đất đã ban tặng cho thiên nhiên và con người. ■
Hoặc kết bài cho văn tả hình ảnh người mẹ : Con yêu mẹ biết bao, mẹ ơi /
3. Một số lưu ý riêng cho từng kiểu bài
a) Kiểu bài văn tả đồ vật, loài vật, cây cối
Đối tượng miêu tả ở kiểu bài văn này thường rất cụ thể, và thường là những vật quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta : Một cái cặp sách, một cái bút, một tấm bản đồ, một con mèo, một chú gà trống, một cây ăn quả,… Kiểu bài này thường khó ở chỗ đối tượng miêu tả quá cụ thể, nhiều khi cấu tạo của nó lại đơn giản nên người miêu tả không biết làm thế nào để phát triển ý. Rút cục là bài văn tả chỉ ngắn cụt lủn, hời hợt, nghèo nàn. Sau đây là một số lời khuyên đối với học sinh để giúp các em làm tốt kiểu bài này.
Thứ nhất, khi làm kiểu bài này có thể chọn trình tự miêu tả là từ bao quát (giới thiệu chung) đến cụ thể (đi vào chi tiết). Riêng tả loài vật, cây cối có thể theo quá trình trưởng thành của đối tượng với các giai đoạn cụ thể.
Thứ hai, đối tượng được miêu tả ở kiểu bài này là những đồ dùng, vật dụng, những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, khi miêu tả, phải chú ý tới công dụng, ý nghĩa của chúng cũng như mối quan hệ giữa chúng với con người. Đặc biệt, thỉnh thoảng trong quá trình tả, có thể đan xen vào một vài kỉ niệm thể hiện sự gắn bó giữa người tả với đối tượng được tả.
Thứ ba, cần biết điều chỉnh một cách hợp lí giữa tả thực và các hình ảnh liên tưởng. Nếu tả thực nhiều quá thì hình ảnh miêu tả trở nên trần trụi. Nếu liên tưởng nhiều quá thì tính chân thực sẽ giảm đi. Riêng đối với đồ dùng vật dụng, không phải lúc nào cũng tả cái mới. Có thể tả những đồ dùng đã cũ (xen vào các kỉ niệm thể hiện sự gắn bó) thì .ý nghĩa của bài làm sẽ sâu sắc hơn.
b) Kiểu bài văn tả cảnh
Đối tượng miêu tả bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt. Có thể coi đây là những bức tranh bằng ngôn ngữ dựng lại một khung cảnh nào đó, một hoạt động nào đó của thiên nhiên, của con người (một phiên chợ tết, một bến đò hoặc ga tàu đông khách, một cuộc thi thả diều, một cánh rừng, một dòng sông, một làng quê yên tĩnh, V.V.). Nội dung của kiểu bài này không nghèo nàn, thậm chí rất phong phú nhưng do kinh nghiệm quan sát của học sinh còn yếu, kiến thức nghèo nàn, trình độ sắp xếp ý còn hạn chế nên bài làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân đối.
Khi làm kiểu bài văn này cần lưu ý một số vấn đề sau :
Đối với văn tả cảnh thiên nhiên, người viết có thể chọn một trong số các trình tự tả : theo trình tự thời gian, không gian, số lượng cảnh,… Bức tranh thiên nhiên không bao giờ ở dạng tĩnh mà luôn có sự thay đổi, vì vậy khi tả phải làm nổi bật được sự thay đổi này (mùa này khác mùa kia, buổi này khác buổi kia, thời điểm này khác thời điểm kia,…).
Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, người tả cần tìm được một số hình ảnh tiêu biểu để tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên nhiên cần chú trọng dùng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh. Dù cảnh thiên nhiên nào thì cũng phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, và phải có mối quan hệ mật thiết với các hiện tượng tự nhiên như gió, nắng,… Các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá nên được vận dụng nhiều để góp phần làm cho bài văn miêu tả sinh động hơn.
Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời gian và trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả chung, nhìn bao quát toàn cảnh và liệt kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh chính, tiêu biểu. Ưu tiên dùng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, về câu văn, tuỳ theo nội dung miêu tả mà lựa chọn kiểu câu ngắn hay câu dài, câu đặc biệt hay câu bình thường, câu đảo ngữ hay câu tỉnh lược,… Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ tình cảm giữa các đối tượng xuất hiện trong các bức tranh cảnh này. Nếu cần thiết vẫn có thể đưa một số mẩu đối thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu nhận xét, cảm nghĩ vào văn tả cảnh sinh hoạt.
b) Kiểu bài văn tả người
Kiểu bài văn này khá thông dụng, được dùng phổ biến, trong cuộc sống hằng ngày. Nhược điểm thường thấy là các em học sinh hay tả người theo một số hình ảnh ước lệ, có tính rập khuôn nhất định, đọc lên nghe quá nhàm, thiếu nét riêng, thiếu sự sáng tạo. Hơn nữa, dưới ngòi bút của các em, các nhân vật thường được lí tưởng hoá, đẹp hơn, đáng yêu hơn, nhưng lại thiếu tính chân thực (ví như hình ảnh mẹ hay cô giáo đều có dáng đi mềm mại, thướt tha„ mũi dọc dừa, bàn tay đẹp với những ngón thon như tháp bút,… Tức là vô tình người tả biến họ thành những cô văn công trên sân khấu).
Khi làm kiểu bài văn này cần lưu ý mấy điểm sau :
Phải xác định rõ đối tượng được miêu tả (tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính) để trên cơ sở đó chọn hình ảnh tả cho phù hợp. Chẳng hạn như người phụ nữ làm nghề dạy học sẽ có trang phục, diện mạo, cử chỉ khác hẳn người phụ nữ là công nhân làm đường.
Bên cạnh đó, phải xác định yêu cầu cụ thể của từng đề nữa. Nếu tả người nói chung thì phải làm nổi bật đặc điểm ngoại hình và tính cách ; nếu tả người trong trạng thái hoạt động thì phải tập trung vào cử chỉ, động tác. Ngay cả việc tìm những nét về ngoại hình, tính cách của nhân vật để miêu tả cũng phải gắn kết với hoạt động đang diễn ra (chẳng hạn, tả chú công nhân đang xây nhà thì phải tập trung vào cử động của đôi bàn tay, gương mặt; tả cầu thủ bóng đá thì chú ý động tác của đôi chân, tả cô giáo đang giảng bài thì chú ý dáng đi, giọng nói, gương mặt, thái độ,…).
Đối với văn tả người cũng phải chú trọng nhiều tới ngôn ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh. Đặc biệt, người viết phải bộc lộ tình cảm đối với người được tả ngay trong quá trình làm văn (trực tiếp qua những câu bình phẩm, nhận xét, những câu cảm thán ; gián tiếp qua việc lựa chọn hình ảnh, từ ngữ và sắp xếp trật tự miêu tả)