1/ “Tả cảnh” là tả cảnh thiên nhiên và tả cảnh lao động sinh hoạt. Dù tả đối tượng nào, để viết được bài văn tả cảnh, các em cũng phải thực hiện các bước. Những bước đó là gì?
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
NHỮNG LƯU Ý KHI LÀM VĂN MIÊU TẢ
1. Các kĩ năng chung cần sử dụng khi làm văn miêu tả
2. Kĩ năng quan sát, ghi chép
Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là con người và cuộc sống của con người. Có thể coi đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp và sống động đang diễn ra quanh ta, thay đổi từng ngày từng giờ. Tuy vậy, không phải tự nhiên mà ta hiểu và nắm vững được đặc điểm của từng sự việc, từng sự vật, từng con người để miêu tả đúng bản chất của nó. Vì vậy, phải quan sát, ghi chép.
Đối với các nhà văn, kĩ năng quan sát đóng một vị trí hết sức quan trọng, thậm chí được coi là yếu tố khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác cũng như quyết định cho sự thành công của quá trình miêu tả hiện thực cuộc sống. Không thể ngồi trong bốn bức tường, chỉ dùng trí tưởng tượng để mà dựng lại những bức tranh về thiên nhiên, loài vật và con người. Trí tưởng tượng dù có phong phú đến bao nhiêu cũng không thể nào sánh được với hiện thực cuộc sống. Ngay cả những câu chuyện thần thoại – sản phẩm được tạo nên bằng trí tưởng tượng của người xưa – suy cho cụng cũng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, mang bóng dáng và hơi thở của cuộc sống.
Quan sát để ghi nhận, để khám phá và để hiểu về thế giới quanh mình. Sau đồ mới có thể viết được. Ta hãy nghe chính nhà văn Tô Hoài – tác giả truyện Dế Mèn phiêu lưu kí – tâm sự : “… Chẳng phải chỉ vì có khiếu và thích thú trong tưởng tượng mà có thể viết được. Những chàng Dế Mèn, đại vương Ê
Ếch Cốm và thầy đồ Cóc có trở thành bầu bạn với các bạn đọc là do một hoàn cảnh thực tế thời niên thiếu tôi đã được sống. Trước cổng làng tôi có một bãi sông, trên bãi ấy đã sinh hoạt một thế giới rất nhiều cây cỏ và các loài vật cho chúng tôi đùa chơi với. Những con giống trong Dế Mèn phiêu lưu kí mà tôi có miêu tả được sự hoạt động, tính nết và “phong tục” của chúng, là do tôi có nghịch, có bè bạn thân thiết với chúng‘nhiều. Thực tế ấy, thơ mộng ấy khơi nguồn cho tôi viết. Chứ không phải chỉ có khiếu viết văn. Cái khiếu có tạo ra các nhân vật ấy đâu !” (Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, Sđd). Còn nhà văn Vũ Tú Nam cũng bày tỏ kinh nghiệm của mình : “Tôi đã say mê chơi các loài dế từ ngày ấy, để bốn mươi năm sau tôi có đủ tình yêu và sự hiểu biết để viết Dế chọi và Ong bắt dế. Những cây gạo cao lớn bên vườn rau của mẹ tôi khi xưa đã giúp tôi viết Cây gạo. Tôi đã bắt con bọ ve, thả trong màn, thức rất khuya để quan sát nó lột. Cũng như tôi đã nuôi cơn bọ ngựa cái sắp đến ngày sinh, theo dõi từ khi nó đẻ đến khi trứng nở ra hàng đàn bọ ngựa xinh xinh… Từ đó mà có thể viết được Đêm hề và Cái trứng bọ ngựa…” (Vũ Tú Nam – Văn miêu tả và kể chuyện). Qua những lời tâm sự ấy, ta có thể thấy được thái độ làm việc nghiêm túc của- các nhà văn đối với công việc sáng tác nghệ thuật.
Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả, kĩ năng quan sát và ghi chép cũng rất cần thiết. Tất nhiên, các em không thể có ngay được kĩ năng ấy và sử dụng nó thành thạo như các nhà văn vẫn làm. Tất cả đều mới ở bước đầu tập dượt: tập quan sát, tập ghi chép, tập phát hiện ra những đặc điểm của các sự vật, hiện tượng quanh mình. Từ đó cỏ vốn để làm văn miêu tả. Nhưng trong thực tế, các em hay bỏ qua kĩ năng này. Thông thường, các em làm văn ở lớp (rất ít bài làm ở nhà). Ngồi giữa bốn bức tường của lớp học, xung quanh chỉ có thầy cô giáo, bạn bè, bảng đen, bàn ghế mà phải làm những bài văn tả cảnh biển, cảnh cánh đồng lúa chín, cảnh một buổi lao, động,… thì quả là không có gì để quan sát trực tiếp. Thế mới xảy ra tình trạng bịa đặt hình ảnh trong bài làm, khiến cho những hình ảnh miêu tả ấy thiếu tính chân thực, thậm chí hết sức vô lí. Chẳng hạn như câu tả “Đêm cuối tháng, cả bầu trời vằng vặc ánh trăng, chi chít muôn ngàn vì sao lấp lánh, lấp lánh” (“Đêm cuối tháng” thì làm gì có trăng ! Mà những hôm “trăng sáng vằng vặc” thì lấy đâu ra “muôn ngàn vì sao chi chít” !). Hoặc có em lại tả “Con lợn sề có bốn cái chân như bốn cái ống điếu” (Với bốn cái chân ấy thì làm sao có thể trụ vững cho toàn bộ cơ thể to lớn của con lợn sề ?)… Chính vì những hình ảnh miêu tả vô lí ấy mà nhiều bài làm của các em bị cô giáo phê là “thiếu kiến thức thực tế”.
Vậy chúng ta có thể quan sát lúc nào ? Cách quan sát và ghi chép sao cho hợp lí ?
Qua tập hợp, khảo sát một số đề tập làm văn mà giáo viên trung học cơ sở thường sử dụng, ta có thể thấy rằng số đề bài đề cập tới những hình ảnh miêu tả xa lạ với cuộc sống của các em rất ít (Ví như yêu cầu học sinh miêu tả một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước trong khi không phải em học sinh nào cũng có điều kiện được đi tham quan ở những nơi đó, nhất là học sinh ở nông thôn, miền núi ; hoặc yêu cầu học sinh nông thôn tả cảnh hoạt động của một nhà máy, yêu cầu học sinh thành phố tả những công việc đồng áng ngày mùa,…). Đa số đối .tượng miêu tả trong các bài văn mà giáo viên yêu cầu các em viết thường là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống : hình ảnh cô giáo, hình ảnh một bạn học sinh, không khí giờ ra chơi, con đường tới trường, buổi bình minh,… Tuy vậy, các em học sinh vẫn tỏ ra lúng túng khi làm bài. Và kết quả cho ra đời những bài văn nghèo nàn về nội dung ý nghĩa, thiếu sức thuyết phục. Nguyên nhân là do các em ít quan sát, không có thói quen để ý các sự vật, sự việc, hiện tượng quanh mình. Nói đúng hơn là có nhìn mà không thấy, có nghe mà không cảm nhận. Muốn khắc phục tình trạng này, các em học sinh phải tập thói quen quan sát hằng ngày. Quan sát và tự đặt ra những câu hỏi để giải đáp, nhằm tìm hiểu và khắc sâu vào trí nhớ những hình ảnh về cuộc sống xung quanh. Hãy xem hai bên đường ta đi học có những gì ? Cây cối, cảnh vật ra sao ? Cảnh về mùa đông khác với cảnh về mùa hè, cảnh buổi sáng khác với cảnh buổi chiều ở chỗ nào ? Hay hãy quan sát em bé tập đi mà xem : Nó độ bao nhiêu tháng tuổi ? Gương mặt và hình dáng như thế nào ? Từng động tác tập đi ra sao ?… Tất cả những điều ta quan sát và ghi nhận được cần phải chép lại vào một cuốn sổ tay. Không cần ốhép dài dòng, chỉ điểm qua những nét chính, ngắn gọn. Sẽ rất thành công nếu khi quan sát chúng ta có được những phát hiện bất ngờ. Những phát hiện này sẽ là điều kiện giúp cho bài làm của các em thêm sáng tạo và độc đáo.
Có thể một số em sẽ nêu thắc mắc : Những đối tượng không xuất hiện trực tiếp hằng ngày trong cuộc sống của các em thì làm sao có thể quan sát ? ở miền núi lấy đâu ra biển ? Ở đồng bằng lấy đâu ra rừng ? Vùng sản xuất nông nghiệp lấy đâu ra nhà máy, công xưởng ?… Khắc phục điều này không khó. Chúng ta có nhiều nguồn để thu thập kiến thức thực tế cho mình. Chẳng hạn như quan £át qua những hình ảnh trên chương trình truyền hình, quan sát qua những bức tranh (ảnh), đọc những tác phẩm văn học có nghệ thuật miêu tả đặc sắc,… Từ nhiều nguồn khác nhau đó, chúng ta chắc chắn sẽ có một vốn kiến thức thực tế hết sức phong phú.
a) Kĩ năng tưởng tượng
Có thể khẳng định rằng nếu không có kĩ năng tưởng tượng thì bài văn miêu tả chắc chắn sẽ không thể hay được, dù là văn tả thực. Làm nghệ thuật nói chung và viết văn miêu tả nói riêng không thể chấp nhận kiểu sao chép hiện thực cuộc sống một cách máy móc, khô cứng. Nếu chỉ quan sát và ghi chép vào bài làm đúng y nguyên những điều đã quan sát thì bức tranh được, miêu tả trong bài văn sẽ quá trần trụi, thiếu sức hấp dẫn. Vì vậy, cần tưởng tượng và sáng tạo thêm để bổ sung những hình ảnh phù hợp, làm cho bức tranh miêu tả trở nên phong phú và sinh động hơn.
Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Tô Hoài không thể xây dựng được một bức tranh phong phú về thế giới loài vật như trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí.
Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Vũ Tú Nam không thể viết được trang văn miêu tả cảnh thay đổi kì diệu của màu nước biển trong Biển đẹp.
Vậy khi làm văn miêu tả, trí tưởng tượng được dùng với vai trò gì ?
Có thể nói rằng vai trò của trí tưởng tượng rất lớn. Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự phong phú cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà còn giúp cho người làm văn miêu tả tìm được những từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn miêu tả hấp dẫn hơn.
Ta hãy so sánh hai đoạn vằn miêu tả sau : ,
Đoạn văn 1 : “Trên bãi cỏ sau làng, đàn bò đang gặm cỏ. Con nào con nấy hùng hục ăn một cách ngon lành, không còn để ý gì đến xung quanh. Tiếng gặm cỏ nghe rào rào. Nhìn cảnh tượng ‘ấy thật thú vị” (Bài làm của học sinh).
Đoạn văn 2 : “Con Nâu đứng lại. Cả đàn bò dừng theo. Tiếng gặm cỏ bắt đầu rào lên như một nong tằm ăn rỗi khổng lồ. Con Ba Bớp vẫn , phàm ăn tục uống nhất, cứ thúc mãi mõm xuống, ủi cả đất ra mà gặm. Bọt mép nó trào ra, trông đến là ngon lành. Con Hoa ở gần đó cũng hùng hục ăn không kém… Mẹ con chị Vàng ăn riêng ở một chỗ. Cu Tũn dở hơi, chốc chốc lại… chạy tới ăn tranh mảng cỏ của mẹ. Chị Vàng lại dịu dàng nhường cho nó, đi kiếm mảng khác” (Hồ Phương – cỏ non, trong Văn học 6, tập một, NXB Giáo dục, 2000).
Ớ đoạn văn thứ nhất, người tả chỉ dùng những câu văn tả thực hoàn toàn giới thiệu cảnh đàn bò gặm cỏ. Vì thế ý không thể phong phú, và đoạn văn cũng không có sức gợi tả, gợi cảm. Nhưng ở đoạn thứ hai, tác giả Hồ Phương đã kết hợp một cách tài tình giữa hình ảnh tả thực và những hình ảnh sáng tạo nhờ trí tưởng tượng. Chính trí tưởng tượng phong phú đã giúp cho tác giả khi nghe tiếng đàn bò gặm cỏ đã liên tưởng tới âm thanh “của một nong tằm ăn rỗi khổng lồ”. Và cũng nhờ trí tưởng tượng mà tác giả đã phát hiện ra được tính cách của từng con bò qua cách gặm cỏ của chúng : Con Ba Bớp thì “ngổ ngáo”, “phàm ăn tục uống” ; con Hoa vốn “tiểu thư yểu điệu” nhưng cũng không cưỡng lại được sức hấp dẫn của bãi cỏ non, “hùng hục ăn không kém”cu Tũn như một chú bé con dở hơi, tinh nghịch, nũng nịu ; chị Vàng đúng là một người mẹ dịu dàng, quen nhường nhịn,… Nghệ thuật so sánh kết hợp với nhân hoá đã làm cho hình ảnh đàn bò gặm cỏ hiện lên thật sống động dưới ngòi bút miêu tả sáng tạo của nhà văn Hồ Phương.
c) Kĩ năng so sánh
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng. Khi quan sát một đối tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ kích thước tới trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ tới những hình ảnh khác có cùng một nét tương đồng nào đấy. Chính sự liên tưởng, so sánh này làm cho trang văn miêu tả hay hơn, và đối tượng miêu tả hiện lên rõ hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Nếu xét về đối tượng, hiện tượng so sánh trong văn miêu tả hết sức đa dạng và phong phú :
Có thể so sánh người với người : “Với gương mặt phúc hậu và mái tóc bạc trắng, trông bà hệt như một bà tiên trong truyện cổ tích” ; ” Nhìn nó chăm chỉ làm việc giúp bà, ai cũng tấm tắc : Hệt như cô Tấm trong truyện cổ tích xưa”…
Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách) : “Lão ta quá ranh mãnh, xảo quyệt, y như một con cáo già” ; “Trông anh ta như một con gấu ” ; “Cậu ấy nhanh như một con sóc”…
Có thể so sánh người với cây cối : “Chấm cứ như một cây xương rồng” (Đào Vũ – Cái sân gạch); “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ lớn lên từ bùn đất”…
Có thể so sánh người với các hiện tượng tự nhiên : “Giọng lão ta lúc nào cũng gầm vang như sấm”; “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…
Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh : “Cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới” (Vũ Tú Nam) ; “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm vàng ai bỏ quên giữa cánh đồng lúa chúi” (theo Vích-to Huy-gô) ; “Măng chồi lên nhọn hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất luỹ mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú);
Có thể so sánh vật với con người : “Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên” ; “Cây bưởi như một người mẹ đang cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc” (Đoàn Giỏi);
Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau :
So sánh theo hướng thu nhỏ lại : “Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng giữa không trung” ; “Xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm dập dờn trên mặt biển” ;
So sánh theo hướng phóng đại lên : “Rệp bò lổm ngổm như xe cóc – Muỗi lượn nghênh ngang tựa máy bay” (Hồ Chí Minh) ; “Chiếc lá tre được thả xuống dòng nước, tròng trành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của chúng tôi” ;
So sánh theo hướng cụ thể hoá : “…Từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi” (Thánh Gióng) ; “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn” (Nguyễn Tuân) ;
So sánh theo hướng trừu tượng hoá : “Nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào thân tre” (Nguyễn Tuân) ;
Tuy nhiên, khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu ý là phải biết sáng tạo, biết tìm điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ, quá sáo mòn theo kiểu : “Miệng’cười tươi như hoa”, “Những hạt sương long lanh như những hạt ngọc đính trên cánh hoa hồng”, “Cánh động lúa chín trông như tấm thảm vàng trải rộng đến chân trời”, v.v.
c) Kĩ năng nhận xét
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình. Dấu ấn chủ quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biểu lộ thái độ, tình cảm riêng của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả. Một nhà văn Pháp có nói : “Một trăm thân cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì thân cây bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa nào cũng khác nhau. Trong đời ta gặp bao nhiêu người, phải thấy ra mỗi người mỗi khác nhau, không một ai giống ai” (Dẫn theo Tô Hoài – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả) .
Không phải chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cũng nên ý thức rõ điều này. Chúng ta có thể hiểu cụ thể thêm nữa, rằng thiên nhiên và con người xung quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay đổi không ngừng – thật vô cùng thú vị và hấp dẫn. Đâu phải chỉ có ngọn lửa này khác ngọn lửa kia, thân cây bạch dương này khác thân cây bạch dương kia mà ngay cùng một sự vật, hiện tượng ấy cũng từng phút, từng giờ thay đổi liên tục. Cũng một con đường từ nhà đến trường, nhưng sáng hôm nay ta thấy nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi khác. Cũng một cây bàng, chiều hôm trước còn trơ trui lá cành, mà chỉ sau mấy hôm đã đâm chồi nảy lộc, tràn đầy sức sống. Cũng một bãi biển, nhưng khi ta buồn ta sẽ cảm nhận nó khác khi ta đang vui… Có thể nói rằng, đối tượng miêu tả sẽ xuất hiện và đi vào bài văn tuỳ thuộc vào điểm nhìn, thái độ, tình cảm, tâm trạng cũng như tình huống tiếp xúc của người viết. Đây chính là cơ sở tạo nên dấu ấp chủ quan của người viết trong văn miêu tả. Nó đòi hỏi người viết phải bộc lộ trong tác phẩm của mình những lời nhận xét, những suy nghĩ, những cảm nhận riêng về đối tượng.
Vấn đề là phải dùng cách nhận xét như thế nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả ?
– Trước hết có thể nhận xét trực tiếp bằng những lời bình, những câu cảm thán, nhũng hình ảnh so sánh : “Chà ! Chà ! Béo ơi là béo ! “, ” Gớm ! Béo đâu có béo lạ béo lùng thế !” (Nguyễn Công Hoan) ; “Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng, nom thật đẹp (Vũ Tú Nam) ; ” A Cháng đẹp người thật… Nhưng phải nhìn Hạng *A Cháng cày mới thấy hết được vẻ đẹp của anh” (Ma Văn Kháng);
Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả. Đây là thái độ mỉa mai, giễu cợt của nhà văn Nguyễn Công Hoan khi miêu tả hình ảnh một “bà chủ” : “Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta chiưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem eất đi”. Còn đây là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn Võ Tú Nam khi quan sát và miêu tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như thổi : “Rọi quả thi nhau chòi ra… bằng ngón tay… bằng con chuột. Rồi bằng con cá chuối to…”.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |