Bộ Luật Hồng Đức (hay còn gọi Quốc triều hình luật; Lê Triều hình luật) là một bộ luật điển hình, hoàn thiện nhất trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần với kỹ thuật pháp lý hiện đại. Bộ Luật Hồng Đức đã trải qua một quá trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê Thánh Tông mới hoàn thành. Thực ra, Bộ luật đó không phải do Lê Thánh Tông sáng tạo ra, cũng không phải được xây dựng riêng trong những năm Hồng Đức (1470-1497), mà là sản phẩm của một thời kỳ phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, trong cả thời Lê sơ. Công lao của triều vua Lê Thánh Tông là đã san định các luật lệ của những triều vua trước để hoàn thành bước xây dựng bộ pháp điển ấy. Các triều đại phong kiến thời Lê Trung Hưng (1533-1789) sau này vẫn lấy Bộ Luật Hồng Đức làm quy tắc mẫu mực, chỉ sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản phụ cho thích hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời. Bộ Luật Hồng Đức còn lại hiện nay (đã được các triều vua thời Lê Trung Hưng bổ sung thêm) gồm 13 chương, 722 điều, chia làm 6 quyển[1]:
+Quyển 1 có 2 chương: Danh lệ 49 điều và Cấm vệ 47 điều;
+Quyển 2 có 2 chương: Vi chế 144 điều và Quân lính 23 điều.
+Quyển 3 có 6 chương: Hộ hôn 60 điều; Điền sản 32 điều; Thủy tăng điền sản 14 điều; Tăng bổ hương hỏa 4 điều; Hựu tăng bổ hương hỏa 9 điều và Gian thông 10 điều;
+Quyển 4 có 2 chương: Đạo tặc 54 điều và Đấu tụng 50 điều;
+Quyển 5 có 2 chương: Trá ngụy 38 điều và Tạp luật 92 điều;
+Quyển 6 có 2 chương: Bổ vong 12 điều và Đoán ngục 65 điều.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến tư tưởng tiến bộ, đặc biệt tính nhân văn sâu sắc, tính nhân đạo bao trùm lên những đối tượng “dễ bị tổn thương” hơn trong xã hội, đó là người già, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ đang mang thai,…Từ đó, liên hệ đến chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm hoàn thiện Bộ luật Hình sự năm 2015, với tư cách công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Thứ nhất, Bộ luật Hồng Đức mang nhiều tư tưởng tiến bộ, đi trước thời đại
Ra đời vào giữa thế kỷ XV, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã đạt được giá trị và thành tựu nổi bật, có những đặc điểm tiến bộ và ưu thế hơn hẳn các bộ luật trước và cả sau nó. Thậm chí, nhiều yếu tố còn có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống luật của nước ta hiện nay. Điều tiến bộ nổi bật nhất được các nhà nghiên cứu đề cập đến nhiều nhất chính là sự quan tâm nhiều đến địa vị của người phụ nữ, quan tâm đến quyền lợi của họ, cho họ một sự bình đẳng tương đối đối với đàn ông trong xã hội và người chồng trong gia đình. Đó chính là yếu tố góp phần làm nên sự đặc biệt và tiến bộ đi trước thời đại của bộ luật này.
Trong Bộ luật đã có nhiều điều liên quan đến địa vị pháp lý của người phụ nữ – một điều ít thấy trong các bộ luật phong kiến. Giải thích về nguyên nhân có sự coi trọng người phụ nữ như vậy, nhiều ý kiến cho rằng điều đó phần nhiều là do sự chi phối của tư tưởng Lê Thánh Tông. Ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng Nho giáo với phong tục tập quán và truyền thống dân tộc, cuộc đời của vị vua này còn chịu ơn rất nhiều người phụ nữ như bà thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao[2], bà Nguyễn Thị Lộ[3], … vì thế ông muốn bảo vệ người phụ nữ thoát khỏi sự khinh rẻ bị chà đạp thường xuyên trong xã hội phong kiến. Bộ luật Hồng Đức đã quan tâm bảo vệ những quyền cơ bản của con người. Mặc dù bị hạn chế bởi quan niệm giai cấp hẹp hòi, nhưng bộ luật này cũng đã đưa ra nhiều quy định bảo vệ con người, trong đó có cả việc bảo vệ những những ở tầng lớp dưới trong xã hội, như bảo vệ quyền dân chủ tự do của dân đinh, có nhiều điều quy định các hình phạt cụ thể chống lại sự nô tỳ hoá đối với dân đinh, đặc biệt là trong đó không có sự phân biệt về địa vị xã hội và bảo vệ danh dự, nhân phẩm con người. …
Trong lĩnh vực pháp luật, Bộ luật hồng Đức cũng có những tiến bộ vượt trội so với thời đại, đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng quan lại, những điều luật liên quan đến quan tướng các cấp chiếm trên 50% tổng số điều luật về quy định về tội phạm, quy định về tội phạm rất tỉ mỉ, chi tiết làm tăng tính hiệu lực của bộ luật, các loại tội phạm được quy định khác nhau, tuy tội phạm này không cùng xâm hại một khách thể nhưng lại có liên hệ với nhau và được phân theo nhóm, nên rất thuận tiện cho việc xét xử. Tuy ra đời cách đây hơn 500 năm, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã quy định được gần như tất cả các tội danh cơ bản theo luật hình sự hiện đại. “Lê triều hình luật” quan tâm nhiều đến việc bảo vệ các quan hệ gia đình. Có thể, các “nhà lập pháp” lúc bấy giờ đã nhận thức rất rõ vai trò quan trọng trong gia đình – hạt nhân của xã hội. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự chi phối rất mạnh của hệ tư tưởng Nho giáo đến chính trị, xã hội Đại Việt thời kỳ đó. Có thể nói, Bộ luật hồng Đức đã đạt được rất nhiều thành tựu nổi bật, có tính chất tiến bộ vượt thời đại. Sự phát triển cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền thời Lê Sơ đã được khẳng định thêm ở độ bền vững với sự ra đời của “Lê triều hình luật” năm 1483 thời kỳ Hậu Lê trong thời thịnh trị[4].
Thứ hai, tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định của Bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại. Đặc biệt, Bộ luật này còn có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia…
Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng lên một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già yếu… được xếp vào nhóm “đối tượng dễ bị tổn thương” cần có sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng thì hơn 500 năm trước, trong Bộ luật Hồng Đức đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội, nhất là của quan chức đối với nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê[5].
Một là, tính nhân đạo đối với người phạm tội
Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Điều 16, mà theo đó, những người phạm tội từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si, câm, cơ thể què quặt, gẫy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền; 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật như điên cuồng, tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tử thì trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho chuộc tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tử tội cũng không áp dụng hình phạt.
Xử lý tội phạm, Điều 17 Bộ luật Hồng Đức còn lưu ý đến thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật, theo đó “khi phạm tội chưa già, tàn tật. Khi già, tàn tật mới phát giác tội thì xử tội theo luật già, tàn tật…Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ”. Nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên quan đến người làm chứng, tại Điều 665, quy định: “Những người đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội.
Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”.
Với những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược với tù nhân, như trường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được tiến hành tra khảo, cụ thể, Điều 669, quy định: “…Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…”. Theo Điều 697, trường hợp phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng với hoàn cảnh của tội nhân nghèo khổ cùng cực không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua định đoạt.
Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền lợi thiết yếu của họ, Điều 707 quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bị tội trên, nhưng được giảm một bậc”.
Hai là, tính nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt
Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không có người để nương tựa thì quan chức địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ họ, Điều 294 quy định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa, quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, không được để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm hay bị bãi chức…”.
Một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác là “những người góa vợ, góa chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ không người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công”.
Ba là, quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em
Đối với phụ nữ, quyền lợi của đối tượng này được đề cập chủ yếu trong hai chương “Hộ hôn” và “Điền sản” với những quy định thể hiện sự coi trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ cũng như bảo vệ quyền lợi của họ trong việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.
Người vợ, theo phong tục phải lệ thuộc vào chồng, nhưng trong Bộ luật Hồng Đức địa vị của người vợ có những độc lập nhất định như họ có quyền có tài sản riêng, có quyền xin ly hôn trong một số trường hợp, chẳng hạn, tại Điều 308 quy định: “Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 5 tháng thì vợ được phép trình quan sở tại, quan xã làm chứng thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia hạn 1 năm. Những người công sai đi xa không áp dụng luật này. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm”.
Trong trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị tội, theo Điều 320: “Mãn tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngoài ông bà, cha mẹ, kẻ nào khác gả ép người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly dị. Trả người đàn bà về chồng cũ…” hoặc quy định tại Điều 338: “những nhà quyền thế mà ức hiếp để cưới con gái lương dân thì xử phạt, biếm hay đồ”. Khi xảy ra tình trạng ly hôn, luật xác định tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: i) Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; ii) Tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ; iii) Tài sản chung do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân tồn tại. Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.
Điều 403 và Điều 404 Bộ luật Hồng Đức quy định xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp dâm thì xử lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường. Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người bị thương. Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà người bị chết” ; “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm”.
Theo Điều 482, nếu “chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết người nhưng nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền mạng bớt 3 phần. Cố ý giết vợ thì giảm một bậc tội; nếu có tội bị chồng đánh, không may chết thì xử riêng. Đánh vợ bé bị thương, sứt gãy trở lên thì nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…”. Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị tội thì họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định, Điều 409: “Quan coi ngục, lại ngục, ngục tốt gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với tội gian dâm thông thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3 bậc tội cho các gian phụ ấy. Nếu họ bị hiếp thì không xử tội họ”. Đặc biệt tại Điều 680: “Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi sau khi sinh đẻ 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh.
Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh roi đưa đến trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay giết người, làm bị thương người)…”.
Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ, như việc xử lý tội ăn trộm, ăn cướp, mà theo đó, Điều 429, 441 quy định: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có giết người thì xử tội giết người. Đàn bà được giảm tội”, hoặc trường hợp đầy tớ ăn trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì được giảm tội”.
Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ, như cấm “lấy thuốc sảy thai làm người sảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng đều xử đồ. Vì sthai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tội giết người” (Điều 424). Với một số tội, mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, chẳng hạn, Điều 450 quy định: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn bà được giảm một bậc”.
Bên cạnh bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, Bộ luật Hồng Đức còn chú ý đến đối tượng trẻ em, tại Điều 313 quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình không người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm chứng đều bị xử roi, trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho kẻ mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì cho phép”. Theo Điều 605: “Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền), trái luật không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc” (điều 604). Trường hợp kẻ nào “làm chuyện ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành hạ) để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho cha mẹ đứa trẻ chết”.
Bốn là, tính nhân đạo đối với một số đối tượng khác
Những đối tượng này gồm có người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở đợ, người mất khả năng nhận thức…Điều 435 quy định hình thức xử lý với hành vi “trấn lột quần áo, đồ đạc của trẻ em, của kẻ khùng điên, của người say rượu thì bị xử tội đồ và phải đền gấp đôi”.
Điều 363 có quy định: “Mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi mà lại tự ý xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”, trường hợp xâm chữ vào kẻ ở đợ bắt làm nô tỳ cho mình thì bị xử lưu, phạt 50 quan tiền, ngoài ra còn phải trả tiền xóa chữ theo luật định (Điều 365). Nếu “Những nô tỳ được cho về làm lương dân, cấp giấy rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một tư. Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (Điều 291).
Điều 490, quy định trong trường hợp nô tỳ có tội, chủ không thưa quan mà đánh chết thì xử biếm 3 tư. Các nô tỳ ấy không có tội mà đánh chết thì xử đồ. Giết nô tỳ coi từ đường, mồ mả thì xử nặng hơn tội trên một bậc. Nô tỳ sai phạm, dạy bảo đánh bằng roi vô tình làm nó chết, hay ngộ sát thì xử tùy nặng nhẹ…Đối với người dân tộc thiểu số, Bộ luật Hồng Đức cũng có một số điều đề cập đến, đặc biệt là nhằm bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại, như việc cấm quan quân giữ cửa ải khi thấy “khách buôn bán và dân Man Liêu qua cửa ải mà đòi tiền của họ thì bị biếm hai tư.
Đền trả lại cho gấp hai số tiền” (Điều 71) hoặc theo Điều 163 quy định khi chiêu dụ dân Man Liêu mà tự tiện phá nhà cửa lấy súc vật tài sản của dân thì bị tội biếm hay bị đồ, lại phải bồi thường gấp đôi số tiền trả cho dân. Nếu giả mạo chỉ lệnh của quan trên để “đòi trưng thu sản vật của dân Man Liêu thì xử lưu châu ngoài và đền gấp hai tang vật” (Điều 531), còn nếu “thu thuế của dân Man Liêu mà không đến trình người cai quản thì xử biếm một tư” (Điều 595).
Việc xử lý đối với người dân tộc phạm tội cũng có những cân nhắc nhẹ nhàng hơn, áp dụng cả tục lệ của họ, tại Điều 40 có quy định: “Những người miền thượng du (miền núi) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (vùng đồng bằng) thì theo luật mà định tội”. Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn nhau thì xử nhẹ hơn tội cướp, giết người thường một bậc. Nếu hoà giải được với nhau thì cũng cho” (Điều 451); trường hợp “quan quản giám các dân Man Liêu tự ý trông coi các vụ kiện trong hạt riêng, sai người đem tráp đi bắt người hoặc ức hiếp dân thì xử phạt 40 trượng biếm 2 tư” (Điều 164); còn khi bắt tội phạm là người thiểu số mà không trình quan quản giám người Man Liêu thì bị xử biếm một tư (Điều 703).
Thứ ba, giá trị tham khảo của Bộ luật Hồng Đức đối với việc hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 nước ta hiện nay
Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thường tầng của xã hội. Bất kỳ một quốc gia có chủ quyền nào cũng đều lấy ổn định chính trị làm điều kiện trước tiên cho sự phát triển xã hội. Muốn như vậy, phải hình thành một hệ thống pháp luật nghiêm minh, là công cụ bảo vệ nhà nước, bên cạnh các yếu tố vật chất của quyền lực chính trị.
Tính hiệu quả của hệ thống pháp luật, do đó, trở thành thước đo của sự ổn định quốc gia, bởi lẽ nếu pháp luật nghiêm minh, thưởng phạt đúng người đúng việc, xuất phát từ lợi ích chung, hay đảm bảo “chính danh” đối với tất cả các mối quan hệ, các thứ bậc xã hội, thì sẽ góp phần làm cho guồng máy nhà nước vận hành tốt, trên dưới đồng lòng. Trong trường hợp đó, lợi ích của lực lượng thống trị xã hội đồng nhất với lợi ích quốc gia, dân tộc. Sự đồng thuận này có ý nghĩa tích cực ở chỗ, chẳng hạn, nếu diễn ra những sự kiện ảnh hưởng đến toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia thì các lực lượng xã hội sẽ được huy động tối đa, trở thành sức mạnh không thể ngăn nổi, xuất phát từ sự nhận thức về mục tiêu chung.
Các bộ luật của nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở kinh tế và kết cấu giai tầng của xã hội này. Điều hiển nhiên nó là một bộ luật bảo vệ chế độ phong kiến. Những điều luật được soạn thảo ra trong Lê triều hình luật thực chất là xuất phát từ ý nguyện của vua Lê Thánh Tông, và cho dù nó gắn bó với thực tiễn cuộc sống nhưng về cơ bản nó mang những tư tưởng, tình cảm và quan niệm của Lê Thánh Tông, mang theo lòng nhân ái của vị vua lỗi lạc đó. Điều đó đã được khẳng định từ lâu nay. Nguyên tắc cơ bản nhất và cũng là mục tiêu quan trọng nhất của Bộ luật Hồng Đức là bảo vệ, củng cố chế độ quân chủ phong kiến, lợi ích của nhà nước, nhà vua và hoàng tộc. Những hành vi xâm phạm đến lợi ích, sự an toàn và bình yên của Vua, Hoàng tộc và chính quyền đương thời sẽ bị liệt vào tội “thập ác”[6] với những hình phạt nghiêm khắc nhất. Các quy định về tội phạm và hình phạt về lĩnh vực này được quy định rất kỹ lưỡng và cụ thể, tập trung trong các chương: Danh lệ, Vệ cấm, Vi chế, Đạo tặc, Trá nguỵ và Tạp luật. Bộ luật này quy định có 8 “hạng người” có đặc quyền đặc lợi của triều đại nhà Lê. Những người được kể ra đầu tiên là những người thuộc gia đình hoàng tộc, những người cận kề, giúp việc cho nhà vua, quan chức trong triều (Điều 3). Theo điều luật này, nếu những người kể trên phạm tội mà bị xử tử hình thì cơ quan nghị án phải đệ trình nhà Vua xem xét và quyết định. Nếu họ phạm vào những tội bị xử phạt nhẹ hơn thì đều được giảm tội theo quy định.
Bộ luật Hồng Đức bảo vệ cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến: bảo vệ chế độ tư hữu ruộng đất với quyền lợi của quan lại, quý tộc và địa chủ và bảo vệ chế độ sở hữu tối cao của Nhà nước thông qua việc quản lý ruộng đất và thu tô thuế. Những quy định về ruộng đất nằm trong Quyển 3, chương Điền sản (59 điều). Pháp luật bảo vệ nghiêm ngặt chế độ ruộng đất công, xử phạt nặng những hành động cần cố, chiếm dụng đất công, ẩn lậu ruộng đất công ( các điều 342, 343, 345, 346…). Đồng thời, pháp luật cũng bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất (các điều 356, 357, 358, 360, 378). Ngăn cấm quan lại dựa quyền thế chiếm đoạt ruộng đất tư (Điều 370), xử phạt nặng các hành vi vi phạm quyền sở hữu tư nhân như cấm lấn chiếm, xâm phạm. Điều đương nhiên, Bộ luật này, có nhiều điều khoản đặt ra nhằm hạn chế các thế lực ảnh hưởng đối với triều đình (các điều 78, 168, 204, 208, 216, 230, 330, 337, 372); hạn chế sự lạm quyền (các điều 49, 150, 153, 163,213, 675, 720), buộc các quan đại thần phải tuyệt đối trung thành và tận tuỵ với nhà vua (các điều 234, 236, 624, 625); Bên cạnh đó, đề phòng nguy cơ tái xâm lược của nhà Minh, Bộ luật Hồng Đức có những quy định nghiêm khắc trừng trị những kẻ thông đồng hoặc tiết lộ công việc triều đình trong nước cho người nước ngoài (các điều 71, 612, 613), cấm không được tự tiện qua biên giới, kiểm soat chặt chẽ việc thông thương, …
Chẳng hạn trong Bộ Luật Hồng Đức có nhiều điều quy định rõ trách nhiệm bảo vệ đường biên, vùng biển, cửa quan. Các hành vi xâm phạm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ bị trừng trị nghiêm khắc. Điều 71 Bộ luật này, quy định: “Người trốn qua cửa quan ra khỏi bên giới đi sang nước khác thì bị chém”; Người giữ cửa ải (coi xét cửa biển cũng vậy) không biết thì bị lưu đày châu xa” hoặc “Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài thì bị chém” (Điều 74). Quan phường xã biết mà không tố giác thì giảm một bực tội. Quan lộ, huyện trấn dung túng thì tội giống việc kẻ bán kia. Vô tình không biết thì xử tội biếm, phạt…
Vua Lê Thánh Tông đặc biệt coi trọng việc đắp đập, tu sửa đê điều đề phòng bão lụt. Bộ Luật Hồng Đức quy định khá tỉ mỉ về vấn đề này, đó là: “Việc sửa đê những sông lớn bắt đầu từ ngày mồng 10 tháng giêng, người xã nào ở trong đường đê phải đến nhận phần đắp đê, hạn trong hai tháng đến ngày mồng 10 tháng 3 thì làm xong. Những đường đê mới đắp hạn trong 3 tháng phải đắp xong. Quan lộ phải năng đến xem xét, quan coi đê phải đốc thúc hàng ngày. Nếu không cố gắng làm để quá hạn mà không xong thì quan lộ bị phạt, quan giám bị hiếm. Quân lính và dân binh không theo thời hạn đến làm và không chăm chỉ sửa đê, để quá hạn không xong thì bị trượng hoặc biếm”.
Quan điểm “dân là gốc nước”, được thể hiện trong Luật Hồng Đức, cho thấy truyền thống này được Lê Thánh Tông kế thừa, thể chế hóa bảo vệ quyền lợi của người dân, Lê Thánh Tông đưa vào luật những hình phạt đối với những kẻ được giao trọng trách quản lý xã hội nhưng sách nhiễu dân, hành dân. Trong Điều 370 và Điều 371 chỉ rõ: “Những nhà quyền thế chiếm đoạt nhà cửa ruộng đất, ao đầm của lương dân từ 1 mẫu trở lên thì xử phạt, 5 mẫu trở lên thì xử biếm, quan tam phẩm trở xuống thì xử thêm 2 bực tội, bồi thường như luật định. Đã tâu rồi thì xử khác”, và “Trong hạt mình cai quản có cọp, sói, heo rừng… làm hại dân, phá hoại hoa màu mà không lập mưu bắt chúng thì xử tội biếm. Ai giỏi bắt được thì thưởng theo việc nặng, nhẹ”. Luật pháp của triều đình đòi hỏi người ra làm quan phải công tâm, khách quan trong xử phạt, không o ép, bức cung người khác. Điều 683 qui định: “Quan xử án, trong bản bán, chỗ luận tội phải dẫn đủ chánh văn và cách thức của luật định. Làm trái thì xử phạt. Xét xử theo riêng ý mình thì bị biếm một tư. Nếu có thêm bớt thì xử phạt theo luật thêm bớt tội cho người”.
Trong tiến trình hoàn thiện hệ pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, cần tiếp thu, vận dụng, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức vào thực tiễn công tác xây dựng và hoàn thiện BLHS năm 2015. Quá trình đổi mới đất nước việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, trong đó có truyền thống thượng tôn pháp luật, lấy dân làm gốc, xuất phát từ ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông, luôn luôn là điều cần thiết và bổ ích. Xét từ quy luật kế thừa tư tưởng nhà nước pháp quyền của chúng ta, trong quá trình hình thành, có mối liên hệ lịch sử với những yếu tố pháp trị trong tư tưởng phương Đông cổ đại, những bài học trị nước bằng pháp luật kết hợp với văn hóa khoan dung, tinh thần nhân văn của người Việt Nam, trong đó, không thể không nói đến Bộ luật Hồng Đức; những tư tưởng pháp quyền phương Tây cận đại, nhất là tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, quan điểm chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin như tư tưởng định hướng cho chúng ta hôm nay.
Để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta khẳng định “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí”, đồng thời “thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ” và “giữ vững kỷ cương trong xã hội”. Như vậy, điểm chung của truyền thống yêu nước Việt Nam, được thể hiện trong lịch sử cũng như hiện tại là đảm bảo ổn định xã hội vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân.