Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết đoạn văn thuyết minh về nhân vật lịch sử

viết đoạn văn thuyết minh về nhân vật lịch sử

8 trả lời
Hỏi chi tiết
3.152
3
1
Bình
10/05/2020 17:52:02
Nhìn lại một vĩ nhân Đức thánh Trần là tên gọi suy tôn đầy thành kính của nhân dân Việt Nam dành cho Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn – vị anh hùng dân tộc thiên tài đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên vang dội. Sự nghiệp, tài năng và hơn hết là nhân cách lớn lao, kì vĩ của Người đã để lại trong lòng người dân muôn đời lòng biết ơn sâu sắc.Và Người đã hoá Thánh trong tâm thức dân gian trong niềm ngưỡng vọng về một nhân vật lịch sử kết tinh tất cả truyền thống tinh hoa của văn hoá nước Việt.

Năm 1228, nhà Trần vừa giành được ngôi báu từ tay nhà Lý, đang phải gồng mình chống lại các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn… và với cả tôn thất nhà Lý với lời dị nghị cướp giang sơn bằng cuộc đảo chính cung đình êm thấm mà thực chất là cuộc hôn nhân đầy toan tính và sắp xếp của Thái sưTrần Thủ Độ giữa vị “vua bà” cuối cùng của triều Lý – Lý Chiêu Hoàng và vị vua mở nghiệp đế vương Trần triều -Trần Cảnh .

Cũng trong hoàn cảnh hết sức rối ren và phức tạp ấy, Trần Quốc Tuấn ra đời với lời tiên tri của vị đạo sĩ rằng cậu bé này ngày kia có thể “kinh bang tế thế”, giúp nước cứu đời. Trần Liễu – cha Trần Quốc Tuấn, vốn đang ôm mối hận bị cướp vợ là Lý Thuận Thiên (chị gái Chiêu Hoàng) trong lòng , thấy thế càng đặt nhiều kì vọng và tâm huyết vào đứa con trai. Liễu kén thầy giỏi văn, võ khắp nơi về dạy cho con từ thuở nhỏ, ký thác vào con mối thù sâu nặng.

Cậu bé Trần Quốc Tuấn càng lớn càng thông minh, đọc rộng biết nhiều, thông kim bác cổ. Liễu lấy đó làm mừng lắm, hi vọng con có thể giành được ngôi báu để trả lại mối thù năm xưa.

Năm 1258, quân Nguyên Mông tràn vào biên giới Đại Việt . Khi ấy vị Hưng Đạo vương vừa tròn 30 tuổi, cũng đem hết tài sức cùng triều đình chống lại đội quân Tác-ta “bách chiến bách thắng”. Tuy thắng được quân Nguyên nhưng triều đình Đại Việt vẫn phải cống nộp nhiều sản vật quý hiếm và nhà Nguyên liên tục cho sứ sang đòi vua Trần sang chầu, tệ hơn nữa là đặt ra bao nhiêu thứ thuế , sưu nặng nề bắt “tiểu quốc” phải phục tùng.

Với sự tính toán của một nhà quân sự thiên tài, Hưng Đạo vương biết chắc rằng quân Nguyên sẽ không từ bỏ giã tâm xâm chiếm đất nước Đại Việt để làm bàn đạp đánh chiếm các nước lân cận, nên ngay sau trận chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất , Hưng Đạo Vương đốc thúc các quân sĩ nhà Trần liên tục chuẩn bị lương thực và vũ khí cho trận chiến tiếp theo chắc chắn sẽ xảy ra với dã tâm lớn của nhà Nguyên.

Quả như dự đoán, trận chiến với quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285) là lần đầu tư và chuẩn bị kĩ lưỡng và to lớn nhất của quân đội Nguyên Mông. Sau nhiều lần hoãn bất hoãn bất thành, năm 1285, chiến sự bùng nổ.Hốt Tất Liệt phong con trai là Thoát Hoan là Trấn Nam Vương cho đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Hưng Đạo Vương được phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội. Biết trước con đường tiến quân của giặc nên Hưng Đạo Vương đã cho mai phục ở các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược …

Nhưng thế giặc quá mạnh khiến cho quân Trần phải lui về Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương nghe lời Dã Tượng chạy về Bãi Tân theo thuyền của Yết Kiêu rút lui. Không ngờ Yết Kiêu vẫn kiên gan chờ đợi trong khi quân giặc sắp kéo đến nơi. Nên khi thuyền vừa ra xa , quân giặc đuổi theo bắn tên như mưa khiến Trần hưng đạo cảm động tấm lòng của hai gia nô trung thành mà thốt lên : “Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được là nhờ sáu trụ xương cánh, nếu không cũng chỉ như chim thường thôi”.

Bởi Hưng đạo Vương biết rõ : muốn thành công nghiệp lớn phải có người tâm phúc giúp đỡ, chứ chỉ một mình thì dù có tài giỏi cũng không thể làm nên đại sự. Mặt trận ở Tuyên Quang , trần Nhật Duật cũng phải lui biunh khiến vua Trần Thái Tông vô cùng lo lắng . Người dò ý Tiết Chế ngỏ ý hàng giặc để giữ sinh mạng cho bá tính. Nhưng lòng tự tôn dân tộc khiến Trần Hưng Đạo khảng khái: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu lão thần trước đã”. Với chiến thuật nhà binh “dĩ đoản chế trường” mà Trần Hưng Đạo đã khéo léo vận dụng để điều binh khiển tướng tuỳ thời, quân Trần đã dần chiếm ưu thế trên mặt trận và cuối cùng , quân Nguyên tàn dư giẫm đạp lên nhau mà chạy thoát thân, còn Thoát Hoan thì phải chui vào ống đồng nhục nhã chạy về nước.

Mùa xuân năm Đinh Hợi(1287) nhà Nguyên ra lênh xuất quân đánh Đại việt lần thứ ba, chủ trương đánh trên trận thuỷ, ngoài Thoát Hoan còn cử thêm các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích tiến vào nước ta theo 3 đường chính. Cứ tưởng thế giặc như chẻ tre , thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng đạo với kế “lấy quân nhàn thắng giặc mệt”, quân Trần dần giành lợi thế trong khi quân Nguyên thì quá mệt mỏi do không quen khí hậu đất Nam và còn bị thiếu lương thực trầm trọng do Hưng Đạo đã sai người chặn đánh đường tiếp lương của chúng. Quân Nguyên đành phải rút về nhưng qua cửa sông Bạch Đằng lại sa vào trận địa cọc mà Trần Hưng Đạo đã bày sẵn. Cánh quân thuỷ đại bại, quân bộ của Thoát Hoan cũng bị chặn đánh cho thảm hại. Thoát Hoan phải tìm đường tắt trốn về Tư Minh, kết thúc cuộc chinh Nam với hơn 30 vạn quân mà phải chuốc lấy thảm bại nhục nhã.

Quân giặc Nguyên Mông với sức mạnh “vó ngựa quân Nguyên đi tới đâu, cỏ không mọc dược tới đó” chưa chịu thua mộ nước nào trừ Xiêm (Thái Lan) nhờ chính sách cầu hoà khôn khéo của Xiêm, Nhật Bản vì một trận bão biển làm thiệt hại bớt thuyền bè, và trừ cả Đại Việt bởi có sự chỉ huy quân của Trần Hưng Đạo. Cứ ngẫm thử, nếu không là bàn tay xoay chuyển cục diện như thần của Hưng Đạo Vương thì chưa chắc Đại Việt đã có thể thắng được quân Nguyên Mông ba lần vang dội như thế.

Cũng bởi thế mà Trần Hưng Đạo sau này được cả thế giới công nhận và bình chọn là một trong mười vị tướng tài giỏi nhất mọi thời đại, sánh ngang với Thành Cát Tư Hãn, Napoleon… Chẳng thế mà sau này, Bác Hồ luôn khuyến khích các vị lãnh đạo chiến lược của ta đọc lại sử đánh giặc của nhà Trần và những binh pháp mà Trần Hưng đạo đã vận dụng. Chính lối đánh du kích chính là từ lối “dĩ đoản chống trường” của nhà Trần. Cả phép “đánh điểm diệt viện” – đánh vào điểm chết của kẻ thù, đồng thời diệt tiếp viện cũng là mưu của Hưng Đạo. Người dân Đại Việt tự hào sinh ra một người con tuấn kiệt như Trần Hưng Đạo để sánh ngang tầm với thế giới.

Nhiều câu chuyện về đời tư của Trần Hưng Đạo, chắc hẳn các bạn đã nghe nhiều. Nhưng tôi chỉ muốn khẳng định một điều: Nhân cách của Người qua lớn lao, quá minh triết và đức độ so với những vị kỉ đời thường. Và Người đã làm được những điều mà không phải ai cũng làm được bởi một tấm lòng TẬN NGHĨA, CHÍ TRUNG cao đẹp và giản dị với đời.

Bảy mươi hai năm cuộc đời, ba lần trận mạc sống trọn vẹn với nước, với dân. Tâm đức và tài năng hơn người đã khiến Trần Hưng Đạo hoá thánh trong lòng dân muôn đời. Đức thánh Trần vượt trôi với tài năng và sự nghiệp kì vĩ nhưng không quá cao xa . Người thương dân chúng và thấu hiểu kiếp đời bằng tấm lòng và hiển linh cùng nước non. Bởi Người mãi là bất tử trong cõi đời và lòng người.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Hảo Hannah
10/05/2020 17:52:46
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Li bị bắt, Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt. Nguyễn Trãi định đi theo cha để tỏ lòng trung nước, hiếu phụ nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con trở về tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Sau đó, Nguyễn Trãi tìm đường giúp Lê Lợi khởi nghĩa. Trong quá trình kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi trở thành người quân mưu cho Lê Lợi, thay mặt Lê Lợi giao dịch, trở thành vị quân sư xuất sắc. Năm 1427, cuộc chiến đấu chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết “Bình ngô đại cáo”. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Trãi giữ trọng trách quan trọng của đất nước. Những năm sau đó, ông giúp Lê Lợi trị vì đất nước. Nhưng dần dần, triều đình bắt đầu phân chia bè phái, dèm pha, nghi kị lẫn nhau, đặc biệt là một số công thần đã bị hãm hại. Năm 1442. Nguyễn Trãi mắc phải án oan Lệ Chi viên bị khép vào tội mưu sát vua. Cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với những biến động của lịch sử dân tộc. Ông là bậc đại anh hùng dân tộc, là nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi vừa là nhà chính trị, quân sự, vừa là nhà ngoại giao, vừa là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Năm 1962, nước ta đã tổ chức 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi. Năm 1980, Việt Nam cùng hiệp hội UNESCO kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông. Nguyễn Trãi là người Việt Nam đầu tiên được ghi vào danh sách những danh nhân thế giới.
4
0
Bình
10/05/2020 17:52:55

Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại quận Đất Đỏ, nay là huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị làm liên lạc cho công an quận.

Chị là người mưu trí, dũng cảm. Chị Sáu đã có nhiều chiến công hiển hách. Năm 1948, chị được tổ chức phân công đánh phá buổi lễ mít tinh mừng ngày Quốc khánh nước Pháp 14/7/1948. Chị tung lựu đạn vào khán đài có tính trưởng Lê Thành Trường đểgiải tán buổi lễ. Chiến công này tạo cho chị nhiều cơ hội lập công mới. Chị được Đảng giao cho nhiệm vụ trừ gian diệt tề. Tháng 2 năm 1950, trong một lần làm nhiệm vụ, không may chị sa vào tay quân thù. Giặc dùng đủ mọi cực hình tra tấn chị nhưng chị không khuất phục và không khai báo điều gì. Địch đày chị ra Côn Đảo. Bảy giờ sáng ngày 23/1/1952, chúng xử tử chị, khi ấy chị mới tròn mười chín tuổi. Ngày 3/6/1993, chị Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

3
0
Bình
10/05/2020 17:53:12

Vào thế kỉ thứ XVI, đất nước chìm vào nội chiến do hai chúa: Chúa Trịnh chuyên quyền lấn áp vua Lê ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ra sức xây dựng và mở mang thế lực ở Đàng Trong. Nội chiến của nước ta là điều kiện thuận lợi cho phong kiến phương Bắc tiến quân xâm lấn.

Năm 1786, ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa và làm chủ được nhiều nơi. Năm 1788, quân Thanh ồ ạt đưa quân vào Thăng Long. Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi vua và chỉ huy toàn lực lượng tiến quân ra Bắc. Hành quân thần tốc và chỉ trong năm ngày chiến đấu, vua Quang Trung Nguyễn Huệ giải phóng hoàn toàn Thăng Long, đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước ta.

Giải phóng hoàn toàn đất nước, vua Quang Trung bắt tay xây dựng Tổ quốc. Tiếc thay, mọi cải cách của ông đang tiến hành thì ông đột ngột từ trần. Người anh hùng áo vải, cờ đào khi ấy chỉ mớibốn mươi tuổi. Vua Quang Trung mất đi để lại trong lòng người dân Việt sự kính trọng, mến tiếc khôn nguôi và lòng tự hào về một anh hùng chống ngoại xâm lỗi lạc.

3
1
Bình
10/05/2020 17:53:42

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có rất nhiều anh hùng được sử sách ghi danh, một trong số đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh.

 

Người mà được toàn thể nhân dân Việt Nam kính trọng gọi bằng Bác Hồ. Bác là người lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng tháng 8, lập lên nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Tiếp đó, Bác lại lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành thắng lợi hoàn toàn thống nhất đất nước. Bác được UNESCO phong tặng danh hiệu " Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới." Cả cuộc đời Bác là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng và lối sống giản dị của Bác để cho nhân dân noi theo. Nhờ có sự lãnh đạo của Bác mà Việt Nam đang là thuộc địa của thực dân Pháp nay đã thành một nước độc lập.

Để biết ơn Bác, em nguyện ngoan ngoãn chăm học làm theo 5 điều Bác Hồ dạy.

3
1
TRACYSUN
10/05/2020 18:02:57

Nhìn lại một vĩ nhân Đức thánh Trần là tên gọi suy tôn đầy thành kính của nhân dân Việt Nam dành cho Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng dân tộc thiên tài đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên vang dội. Sự nghiệp, tài năng và hơn hết là nhân cách lớn lao, kì vĩ của Người đã để lại trong lòng người dân muôn đời lòng biết ơn sâu sắc. Và Người đã hoá Thánh trong tâm thức dân gian trong niềm ngưỡng vọng về một nhân vật lịch sử kết tinh tất cả truyền thống tinh hoa của văn hoá nước Việt.

Năm 1228, nhà Trần vừa giành được ngôi báu từ tay nhà Lý, đang phải gồng mình chống lại các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn… và với cả tôn thất nhà Lý với lời dị nghị cướp giang sơn bằng cuộc đảo chính cung đình êm thấm mà thực chất là cuộc hôn nhân đầy toan tính và sắp xếp của Thái sư Trần Thủ Độ giữa vị “vua bà” cuối cùng của triều Lý – Lý Chiêu Hoàng và vị vua mở nghiệp đế vương Trần triều -Trần Cảnh .

Cũng trong hoàn cảnh hết sức rối ren và phức tạp ấy, Trần Quốc Tuấn ra đời với lời tiên tri của vị đạo sĩ rằng cậu bé này ngày kia có thể “kinh bang tế thế”, giúp nước cứu đời. Trần Liễu – cha Trần Quốc Tuấn, vốn đang ôm mối hận bị cướp vợ là Lý Thuận Thiên (chị gái Chiêu Hoàng) trong lòng , thấy thế càng đặt nhiều kì vọng và tâm huyết vào đứa con trai. Liễu kén thầy giỏi văn, võ khắp nơi về dạy cho con từ thuở nhỏ, ký thác vào con mối thù sâu nặng.

Cậu bé Trần Quốc Tuấn càng lớn càng thông minh, đọc rộng biết nhiều, thông kim bác cổ. Liễu lấy đó làm mừng lắm, hi vọng con có thể giành được ngôi báu để trả lại mối thù năm xưa.

Năm 1258, quân Nguyên Mông tràn vào biên giới Đại Việt . Khi ấy vị Hưng Đạo vương vừa tròn 30 tuổi, cũng đem hết tài sức cùng triều đình chống lại đội quân Tác-ta “bách chiến bách thắng”. Tuy thắng được quân Nguyên nhưng triều đình Đại Việt vẫn phải cống nộp nhiều sản vật quý hiếm và nhà Nguyên liên tục cho sứ sang đòi vua Trần sang chầu, tệ hơn nữa là đặt ra bao nhiêu thứ thuế , sưu nặng nề bắt “tiểu quốc” phải phục tùng.

Với sự tính toán của một nhà quân sự thiên tài, Hưng Đạo vương biết chắc rằng quân Nguyên sẽ không từ bỏ giã tâm xâm chiếm đất nước Đại Việt để làm bàn đạp đánh chiếm các nước lân cận, nên ngay sau trận chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất , Hưng Đạo Vương đốc thúc các quân sĩ nhà Trần liên tục chuẩn bị lương thực và vũ khí cho trận chiến tiếp theo chắc chắn sẽ xảy ra với dã tâm lớn của nhà Nguyên.

Quả như dự đoán, trận chiến với quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285) là lần đầu tư và chuẩn bị kĩ lưỡng và to lớn nhất của quân đội Nguyên Mông. Sau nhiều lần hoãn bất hoãn bất thành, năm 1285, chiến sự bùng nổ.Hốt Tất Liệt phong con trai là Thoát Hoan là Trấn Nam Vương cho đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Hưng Đạo Vương được phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội. Biết trước con đường tiến quân của giặc nên Hưng Đạo Vương đã cho mai phục ở các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược ...

Nhưng thế giặc quá mạnh khiến cho quân Trần phải lui về Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương nghe lời Dã Tượng chạy về Bãi Tân theo thuyền của Yết Kiêu rút lui. Không ngờ Yết Kiêu vẫn kiên gan chờ đợi trong khi quân giặc sắp kéo đến nơi. Nên khi thuyền vừa ra xa , quân giặc đuổi theo bắn tên như mưa khiến Trần hưng đạo cảm động tấm lòng của hai gia nô trung thành mà thốt lên : "Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được là nhờ sáu trụ xương cánh, nếu không cũng chỉ như chim thường thôi".

Bởi Hưng đạo Vương biết rõ : muốn thành công nghiệp lớn phải có người tâm phúc giúp đỡ, chứ chỉ một mình thì dù có tài giỏi cũng không thể làm nên đại sự. Mặt trận ở Tuyên Quang , Trần Nhật Duật cũng phải lui binh khiến vua Trần Thái Tông vô cùng lo lắng . Người dò ý Tiết Chế ngỏ ý hàng giặc để giữ sinh mạng cho bá tính. Nhưng lòng tự tôn dân tộc khiến Trần Hưng Đạo khảng khái: "Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu lão thần trước đã". Với chiến thuật nhà binh "dĩ đoản chế trường" mà Trần Hưng Đạo đã khéo léo vận dụng để điều binh khiển tướng tuỳ thời, quân Trần đã dần chiếm ưu thế trên mặt trận và cuối cùng , quân Nguyên tàn dư giẫm đạp lên nhau mà chạy thoát thân, còn Thoát Hoan thì phải chui vào ống đồng nhục nhã chạy về nước.

Mùa xuân năm Đinh Hợi (1287) nhà Nguyên ra lênh xuất quân đánh Đại việt lần thứ ba, chủ trương đánh trên trận thuỷ, ngoài Thoát Hoan còn cử thêm các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích tiến vào nước ta theo 3 đường chính. Cứ tưởng thế giặc như chẻ tre , thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng đạo với kế "lấy quân nhàn thắng giặc mệt", quân Trần dần giành lợi thế trong khi quân Nguyên thì quá mệt mỏi do không quen khí hậu đất Nam và còn bị thiếu lương thực trầm trọng do Hưng Đạo đã sai người chặn đánh đường tiếp lương của chúng. Quân Nguyên đành phải rút về nhưng qua cửa sông Bạch Đằng lại sa vào trận địa cọc mà Trần Hưng Đạo đã bày sẵn. Cánh quân thuỷ đại bại, quân bộ của Thoát Hoan cũng bị chặn đánh cho thảm hại. Thoát Hoan phải tìm đường tắt trốn về Tư Minh, kết thúc cuộc chinh Nam với hơn 30 vạn quân mà phải chuốc lấy thảm bại nhục nhã.

2
1
con cá
10/05/2020 18:12:20

Hồ Chủ tịch là lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, một chiến sĩ cộng sản lão thành, Danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, Người là Cha, là Bác, là Anh, Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ… (Tố Hữu). Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch – con người giản dị và vĩ đại – tiêu biểu cho truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang.

Đầu thế kỉ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành thấu hiểu nỗi nhục nô lệ dưới ách xâm lược của thực dân Pháp nên đã noi gương các sĩ phu tiền bối như Phạn Bội Châu, Phan Chu Trinh… tìm đường cứu nước. Rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) năm 1911, Nguyễn Tất Thành nung nấu ý chí là phải sang tận nước Pháp để tìm hiểu kẻ thù, từ đó có cách chống lại chúng.

Ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã cống hiến rất nhiều cho phong trào đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1941, với vốn sống thực tế, với kinh nghiệm dày dặn và trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, dân tộc ta vùng lên phá tan xiềng xích của chế độ phong kiến suy tàn và ách nô lệ của thực dân Pháp cùng phát xít Nhật, giành lại chủ quyền độc lập, tự do. Ngày 2-9-1945, người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Chủ tịch Hồ Chí Minh.)

Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ sáng suốt lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân trường kì kháng chiến và đã kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Nhân dân miền Bắc sau giải phóng phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước và sát cánh cùng đồng bào miền Nam tiếp tục đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ siêu việt, bằng tấm gương suốt đời phấn đấu, hi sinh vì dân vì nước, đã đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chiến đấu đến cùng để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định truyền thống bất khuất, anh hùng của dân tộc Việt Nam.

Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch thể hiện lí tưởng cao cả là một đời phấn đấu, hi sinh để mưu cầu độc lập tự do cho dân, cho nước: Tự do cho tổ quốc tôi, cơm áo cho đồng bào tôi. Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

Tình yêu thương con người của Bác sâu sắc và rộng lớn. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, Bác thương em bé mới nửa tuổi đã phải theo mẹ vào chốn lao tù (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương – Nhật kí trong tù). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác thương các cháu nhi đồng phải sống khổ sở vì thiếu thốn, vì bom đạn: Nay vì vận nước gian nan, trẻ em cũng phải lầm than cực lòng. Bác luôn quan tâm và yêu thương các cháu với tình cảm chân thành, ruột thịt: Ai yêu nhi đồng, bằng Bác Hồ Chí Minh…

Bác thông cảm với người lao động vất vả, cơ cực, lo nỗi lo mất mùa, chia sẻ niềm vui được mùa với nông dân: Nghe nói năm nay trời đại hạn, Mười phân thu hoạch chỉ vài phân… Khắp chốn nông dân cười hớn hở, Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.. (Nhật kí trong tù).

Lòng nhân ái của Bác Hồ bao trùm khắp các tầng lớp nhân dân:

Bác sống như trời đất của ta,
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa,
Tự do cho mỗi đời nô lệ,.
Sữa để em thờ, lụa tặng già.

(Bác ơi- Tố Hữu)

Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta,
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa,
Chỉ biết quên mình cho hết thảy,
Như dòng sông chảy nặng phù sa.

(Theo chân Bác – Tố Hữu).

Bác suốt đời cống hiến, hi sinh vì quyền lợi của đất nước và dân tộc: Nâng niu tất cả chỉ quên mình (Theo chân Bác – Tố Hữu). Bác sống giản dị, thanh bạch, không bao giờ nói về mình. Đức khiêm tốn, sự hài hòa giữa tư tưởng vĩ đại và phong thái tự nhiên, hồn hậu, gắn bó chan hòa với con người và thiên nhiên của Bác đã tạo nên sức thuyết phục lớn lao đối với dân tộc và nhân loại.

Hồ Chủ tịch là một nhân cách khiêm tốn, giản dị và vĩ đại. Tài năng và đức độ của Bác rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà cả nhân loại đã tôn vinh: lãnh tụ cách mạng vô sản xuất sắc, chiến sĩ hòa bình, Danh nhân văn hóa thế giới… Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một Con Người chân chính.

1
0
Trúc Nguyễn
16/01/2022 14:42:33

Mở bài:

-         Giới thiệu sơ lược về nhân vật lịch sử Lý Chiêu Hoàng: Nhân vật đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Thân bài:

1.     Thân thế

-         Quê quán: Thăng Long ( Hà Nội ngày nay).

-         Năm sinh: Bà sinh vào tháng 9 năm 1218 (Mậu Dần). Mất vào tháng 3 năm 1278 (hưởng thọ 60 tuổi).

+ Ban đầu bà tên là Lý Phật Kim, sau này đổi tên thành Lý Thiên Hinh.

+ Bà là con gái thứ 2 của vua Lý Huệ Tông và bà Trần Thị Dung.

2.     Sự nghiệp

 Trong cuộc đời bà được phong các tước hiệu:

·        Nhà Lý : + Chiêu Thánh Công chúa

                           + Hoàng thái tử

                           + Chiêu Hoàng      

·        Nhà Trần : + Chiêu Thánh hoàng hậu

                              + Chiêu Thánh Công chúa (sau khi giáng vị).

·        Thời nhà Lý:

+ Vào tháng  10 năm 1224 (Giáp Thân), Lý Huệ Tông lập Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử rồi truyền ngôi. Đổi thiên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, tôn hiệu Chiêu Hoàng rồi xuất gia.

+ Ngày 21/10 (tức ngày 22/11 dương lịch) năm 1225 (Ất Dậu), Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông sau này).

+ Ngày 11/12 (tức ngày 10/1/1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế ở Điện Thiên An, dựng nên nhà Trần.

ð Kết thúc gần nửa năm cai trị như “Bù nhìn” của Chiêu Hoàng và hoàn toàn chấm dứt 216 năm cai trị của nhà Lý.

·        Thời nhà Trần:

+ Sau khi nhường ngôi Chiêu Hoàng được lập làm Hoàng hậu đầu tiên của nhà Trần cũng là vị Hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, khi đó bà mới 8 tuổi.

3.     Cuộc đời:

+ Sao khi sống cùng chồng trong một thời gian, bà mang thai. Tuy nhiên không rõ do các phi tần khác ganh tị với bà nên đã hạ thuốc hay do bản thân cơ thể bà quá yếu mà con của bà đã mất khi mới sinh.

+ Thái sư Trần Thủ Độ lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu là Thuận Thiên Công chúa (chị gái của Lý Chiêu Hoàng).  Đến bây giờ ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời bà trách chồng về việc này:

Trách người quân tử bạc tình

Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!

 

ð Bà bị giáng vị xuống làm Công chúa và gả cho Lê Phụ Trần và cùng ông trong 20 năm. Và có 2 đứa con là Thượng vị hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy Công chúa tên là Khuê.

ð Quá buồn và chán nản nên bà xuất gia đi tu và sống suốt quãn đời còn lại 

4.     Ý nghĩa: Cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng thường được nhìn nhận là bi kịch khi trở thành con rối chính trị lúc còn quá nhỏ. Thậm chí đền thờ các vị vua Lý tại hậu thế sau này cũng không có vị trí của bà. Bởi người ta nhận định bà là tội đồ đã làm mất nhà Lý, đồng thời còn cho rằng người đương thời lên án và xem trách nhiệm hoàn toàn do Lý Chiêu Hoàng mà ra. Tuy nhiên nào ai có biết được bên trong thâm tâm bà lại cô độc và buồn thảm đến nhường nào. Trong suốt 60 năm cuộc đời ròng rã khoảng thời gian tươi đẹp nhất của bà có được bao nhiêu? Từ khi sinh ra cho đến khi từ biệt cõi đời, với bao biến cố đã khiến bà trở thành một người có số phận lạ lùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với 7 lần ở những danh vị khác nhau: Công chúa triều Lý, Hoàng Thái tử nhà Lý, Nữ Hoàng đế nhà Lý, Hoàng hậu nhà Trần, Công chúa nhà Trần, Sư cô (thời Trần) và Phu nhân tướng quân nhà Trần.

Kết bài: Suốt sáu mươi năm cuộc đời, biết bao lần thay đổi tước hiệu. Trãi qua biết bao thăng trầm đền cuối đời lại cô độc một mình. Qua đó em phần nào hiểu được cuộc đời bi thương của bà, phần nào hiểu cảm giác của người phụ nữ thời phong kiến. Dù khi đó mang trong mình dòng máu cao quý, nhưng số phận lại lênh đênh, hẩm hiu đến đáng thương !

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Lịch sử Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k