Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu ý nghĩa của đoạn thơ / đoạn văn trong bài Đây thôn vĩ dạ

       Câu 3: Nêu ý nghĩa của đoạn thơ, đoạn văn trong bài đây thôn vĩ dạ

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
614
1
0
Doãn
29/05/2020 06:14:31
I. MỞ BÀI

-     Hàn Mặc Tử là một trong số những nhà thơ xuất sắc của phong trào “Thơ mới”. Ông đã để lại nhiều tập thơ đặc sắc, trong đó có những bài thơ rất trong trẻo và tươi sáng, hình ảnh đẹp như trong ca dao, cổ tích. Đó là các bài Tình quê, Mùa xuân chín và đặc biệt là bài Đây thôn Vĩ Dạ, in trong tập Thơ Điên của nhà thơ.

-     Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ viết về Huế, viết cho Huế, bộc lộ lòng mến yêu của tác giả trước một xứ sở đẹp và thơ, với những hình ảnh của cảnh và người xứ Huế thơ mộng. Khổ thơ bình giảng là khố thơ thứ hai

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay          .

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

II.  THÂN BÀI

1. Ở khổ thơ này, tâm trí Hàn Mặc Tử hướng về một hình ảnh không thể tách rời thôn Vĩa Dạ, đó là dòng sông Hương với hai nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ mộng, đồng thời ẩn sâu trong đó biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Hai câu thơ tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai của xứ Huế: gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng nước chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và dòng sông đã tạo sắc thái cảm xúc ở hai câu thơ này. Gió thổi mây bay và nhờ gió mà dòng sông mới có sóng, có sự sống động nhưng ở đây mây và gió lại rời xa nhau. Sự chuyển động ngược chiều của gió mây làm tăng thêm cái trống vắng của không gian; hay nói đúng hơn, rất ít mây và gió nên dòng sông lặng lẽ buồn thiu và cây cỏ bên bờ chỉ lay động rất nhẹ. Nhìn chung, đó là một hình ảnh đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự thờ ơ, xa cách của cuộc đời đối với mình.

2,                                

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

  Có chở trăng về kịp tối nay?

Hai câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà như hư ảo, vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đây là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Có thể nói ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử đã phác họa được nét dẹp của sông Hương là vẻ huyền ảo, thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ thứ hai, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi vì nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải một tối nào khác. Phải chăng trong cái tối nay đó, một buổi tôi thật buồn và cô đơn, nhà thơ có điều gì muốn tâm sự mà riêng chỉ có trăng mới hiểu được nhà thơ? Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng là người bạn thân thiết củanhà thơ. Cũng như nhà thơ rất yêu xứ Huế nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ mới phải mong muốn tâm sự với một người bạn nơi xa vời là vầng trăng - ánh trăng xoa dịu nỗi xót xa, khi có trăng bầu bạn thì con người sẽ bớt cô đơn.

III. KẾT BÀI

-     Cùng với khổ đầu và khổ cuối, khổ thơ thứ hai của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã dệt nên những hình ảnh thơ bằng một thứ ngôn từ trong suốt, đẹp đẽ và gợi cảm, đọng lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng da diết, khó phai mờ về một xứ Huế thơ mộng và thân thương.

-     Người đọc yêu mến bài thơ, vì biết rằng bài thơ này đã được tác giả viết ra từ một tâm hồn đau khổ, nhưng luôn gắn bó thiết tha với cuộc đời và con người bằng một tình yêu trần thế.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
TRACYSUN
29/05/2020 06:18:07

Điểm tựa cấu trúc bài thơ là bốn câu hỏi nghi vấn: Sao anh không về? Thuyền ai? Vườn ai? Ai biết tình ai?

Muốn nắm bắt được nội dung tình cảm của bài thơ phải xác định ai hỏi, hỏi ai, hỏi gì và hỏi để làm gì?

Cái “tôi” trữ tình của nhà thơ chính là chủ thể phát ngôn ba câu hỏi sau. Riêng câu hỏi đầu thường được hiểu là lời của cồ gái Huế, của nhân vật trữ tình khác bên cạnh tiếng nói của chủ thể trữ tình – nhà thơ.

Thực ra không phải vậy. Ở đây chẳng có tiếng chào mời phiền trách nào cả, ở đây, anh là chủ thể phát ngôn, không phải là đối tượng tác động của lời nói trữ tình. Cái “tôi” trữ tình xưng anh để bộc lộ tâm trạng, trò chuyện với lòng mình.

Diễn xuôi: Sao anh (ta, mình, tồi) không về chơi thôn Vĩ để được nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên như thế này!

Tiếng’nói trữ tình trong bài thơ là tiếng nói độc thoại, một giọng, cái “tôi” trữ tình của nhà thơ là chủ thể phát ngôn duy nhất của tiếng nói ấy.

Vấn đề hỏi ai không cần đặt ra khi phân tích bốn câu hỏi trên, vì đó là những câu hỏi tu từ, câu hỏi chứa đựng quá nhiều thông tin trong câu trả lời. Không có ai hỏi nhà thơ và nhà thơ cũng chẳng hỏi ai. Nhà thơ hỏi mình để bày tỏ lòng mình trò chuyện với lòng mình về thế giới.

Tiếng nói độc thoại nội lâm được liên kết băng bôn câu hoi ma moi câu bộc lộ một trạng thái của cảm xúc. Mọi chi tiết đều đẫm cảm xúc, tâm trạng trữ tình, cảnh — người hoà quyện nhưng không theo lôgic khách quan nào cả. Vì thế bài thơ bảy chữ ba khổ mà không có bóng dáng Đường thi, Tống thi nào. Đây là bản tốc kí tâm trạng-

Khổ thơ đầu là tiếng nói bâng khuâng, rạo rực của cái “tôi” trữ tình trước vẻ đẹp trần thế đầy ắp ánh sáng. Cảm giác đắm say, rạo rực thấm đẫm các chi tiết văn bản hình tượng vừa cất lên thành giọng điệu trữ tình rưng rưng tha thiết trong văn bản ngôn từ.

Mọi chi tiết gần gũí với cảnh làng quê, lại có danh từ xác định địa danh, thành có không ít người lầm tướng đây là tả phong cảnh thôn Vĩ, vẻ đẹp thơ mộng của ngoại ihành Huế. Thật ra nét đẹp chủ yếu trong khổ thơ này là vẻ đẹp lãng mạn kín đáo, e ấp. trong sáng, non tơ, tinh khôi, trinh nguyên của bức tranh quê.

Cảm hứng này cất lên thành tiếng nói trữ tình rưng rưng, tha thiết. Hai nhịp thơ tổ chức thành hai câu nghi vấn. Bao nhiêu thiết tha trong hai từ về chơi, nhìn, và luyến láy nắng hàng cau nắng mới lên… câu nghi vấn biến thành câu cảm thán kết tụ vào từ” quá”  , vào cách so sánh mang tính lí tưởng hoá, ước lệ. Câu thơ thứ tư đột ngột chuyển gợi tả càng giàu chất mộng mơ.

Vẻ đẹp trinh nguyên đầy bí ẩn, không thể chiếm hữu. Vườn ai? Thuyền ai? Tinh ai? Ai biết? Cho nên càng mê đắm say sưa rạo rực bao nhiêu càng cảm thấy trống vắng, có đơn bấy nhiêu. Đó là đặc trưng của cảm hứng lãng mạn. Bởi vậy, đằng sau các câu nghi vấn, khổ đầu bài thơ đã thổi ra khí lạnh của chút thoáng buồn man mác. Đến khổ 2, hoá thành đám mây đen phủ kín tâm hồn thi nhân.

Đó là một thế giới rất khác. Phân lìa, chia li, trái ngược, buồn thiu,, xám xịt, trống vắng, hờ hững, thoắt cái thay thế lất cả cái nắng mới hàng caụ, vườn xanh như ngọc thoáng qua như mộng. Tiếng nói trữ tình rạo rực lắng xuống thay vào tiếng nói hờ hững của cõi lòng băng giá, nguội lạnh.

Đó là hai mặt sáng – tối, trái ngược của cảm hứng lãng mạn, hai cách biểu hiện của niềm ham sống, yêu đời. Nửa đầu vừa khép lại nửa sau nổi dậy những con sống mới.

Mở đầu bàí thơ là cảnh nắng, tiếp theo là cảnh trăng. Trăng, nắng đều Là ánh sáng. Nhưng nắng là thực, trăng là mộng. Lời thơ miên man, phiêu lãng trong mộng ảo, xoá nhoà những nét nghĩa thông thường để phủ lên cả vũ trụ màu bạc của trăng.

Bồng bềnh trên con thuyền trăng, người mơ vẫn phấp phỏng một chữ kịp. Khát khao, đồng cảm dồn vào chữ này. Nhưng cũng chính chữ “kịp”  đã trả nhà thơ về cõi thực.

Anh trăng vụt tắt, thanh âm khô lạnh, ánh nắng xa xăm, người trong mộng thành ảo ảnh. Lồ lộ trắng lạnh. Giọng điệu trữ tình kết tụ vào từ quá như nghẹn ngào, xót xa, tiếc nuối… Nàng thơ cất cánh thần tiên tan vào khói sương lãng đãng. Tiếng nói trữ tinh day dứt vang lên pha chút oán trách, giận hờn.

Tình ơì, ai biết? Đại từ phiếm chỉ ai đã biến tâm trạng riêng tư của thi nhân thành câu hỏi ngàn đời, dành cho tất cả những ai đang khao khát yêu đương, đồng điệu, cảm thông.

Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Tìm đồng cảm, đồng đíệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mờ mịt. Cho nên, đắm say rồi nguội lạnh, mộng rồi tình đó là lôgic vận động của cái “tôi” ham sống, yêu đời trong bài thơ này. Lôgic tâm trạng chi phối lôgic phong cảnh và tổ chức giọng điệu trữ tình- Cảnh lúc như gần, lúc như xa, lúc thực, lúc ảo. sắc điệu trữ tình lúc âm u, lúc chói lạnh. Nhưng giọng điệu chủ yếu của tiếng nói ấy vẫn là giọng bâng khuâng, đầy mơ mộng.

Bài thơ là tiếng nói của cái “tôi” bơ vơ, cô đơn, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà tình yêu lứa đôi và hạnh phúc là biểụ hiện cao nhất.

Là bản tốc kí tâm trạng nhưng nhạc thơ chưa vượt khỏi lời thơ, phá vỡ     lôgic ngữ nghĩa thông thường. Lời thơ chưa thành chuỗi phát ngôn thác  loạn  mà  trong sáng, tao nhã, giản dị. Lấy tình làm điểm tựa để vẽ cảnh nhưng tình chưa tràn ra ngoài cảnh, biến cảnh thành những hình thù méo mó, dị dạng như bóng yêu ma. Tắm trong cảm hứng lãng mạn, cảnh sắc trong bài thơ lung linh, kì diệu mà không kì bí. Đây thôn Vĩ Dạ chưa bước qua địa hạt chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Cho nên bài thơ vẫn là sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những vui buồn của loài người và sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×