Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Giải bài có thưởng!

So sánh sự khác nhau giữa hai cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và chống Mông-Nguyên thời Trần theo các nội dung sau:

so sánh sự khác nhau giữa hai cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và chống Mông-Nguyên thời Trần theo các nội dung sau: chủ trương, tương quan lực lượng, quy mô, tính chất  

3 trả lời
Hỏi chi tiết
1.696
0
2
Đỗ Chí Dũng
24/08/2020 09:00:28
+5đ tặng

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
2
Đỗ Chí Dũng
24/08/2020 09:00:35
+4đ tặng

- Lê Hoàn cũng như Lý Thường Kiệt đều sớm hiểu rõ ý định tác chiến của quân Tống là dùng lực lượng quân sự nhanh chóng đánh chiếm kinh đô Đại Việt (là Hoa Lư thời Tiền Lê và Thăng Long thời Lý), tiêu diệt lực lượng quân đội của ta, từ đó buộc triều Tiền Lê và triều Lý phải đầu hàng.
1. Chiến lược
Các nhà lãnh đạo kháng chiến của Đại Việt lúc đó đã theo dõi sát các hành động của quân địch ngay từ lúc chúng bắt đầu chuẩn bị cho đến khi tiến quân xâm lược nước ta. Trên cơ sở nắm chắc tình hình địch và căn cứ vào tương quan lực lượng địch, ta, mà Tiên Lê cũng như nhà Lý đã nắm được quyền chủ động suốt cả cuộc chiến tranh chống Tống. Lê Hoàn đã phán đoán chính xác hướng tiến công của các đạo quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Lưu Trừng nên đã chủ động bố trí thế trận chặn đánh địch ở Bình Lỗ, ở Bạch Đằng Giang... Lý Thường Kiệt với chiến lược “Tiên phát chế nhân” đã chủ động đánh sang đất Tống, tiêu diệt căn cứ xuất phát tiến công, triệt phá các căn cứ hậu cần, quân sự của chúng; khiến muốn xâm lược nước ta chúng lại phải bắt tay vào chuẩn bị từ đầu. Tiếp sau đó đã phán đoán đúng ý đồ của nhà Tống, khẩn trương chuẩn bị lực lượng, xây dựng phòng tuyến chủ động phòng ngự và phản công tiêu diệt quân giặc khi thời cơ xuất hiện.
Trong cả hai cuộc kháng chiến chống Tống ta đều khéo léo kết hợp hai cách đánh “công” và “phòng” (tiến công và phòng ngự) trên cả quy mô chiến lược và chiến thuật để đánh bại chiến lược tiên công chớp nhoáng của địch.
Năm 981, Lê Hoàn cùng các tướng lĩnh và quân đội đã tổ chức những trận địa phòng thủ vững chắc mà trọng điểm là trận địa phòng ngự khu vực ở cửa quan Bình Lỗ và trận địa phòng thủ ở cửa sông Bạch Đằng. Dựa vào trận địa đó, Lê Hoàn đã vừa thực hành tác chiến phòng ngự để ngăn chặn tiêu hao giặc, vừa tổ chức mai phục để tiến công tiêu diệt giặc, tạo điều kiện thuận lợi để quân ta thực hiện phân công - tiến công, truy kích tiêu diệt quân Tống.
Trong nhữngnăm 1075 - 1077, Lý Thường Kiệt đã thực hành tập kích chiến lược ở các châu Ung, Khâm, Liêm, phòng ngự chiến lược ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) và khi thời cơ đến đã thực hành phản công chiến lược trên quy mô để tiêu diệt địch.
Cả Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đều khéo vận dụng kết hợp giữa tác chiến trên bộ và trên sông biển, giữa bộ binh và thủy binh, đánh tan kế hoạch hiệp đồng thủy bộ của quân Tống. Trong cả hai lần kháng chiến nói trên, ta đã tạo được một thế trận phòng thủ chiến lược mạnh có thể chặn đánh, phá kế hội sư thủy bộ của địch, đồng thời lại tạo điều kiện để thực hiện tác chiến phôi hợp giữa quân triều đình và thổ binh; vừa có thể đánh địch ở phía trước vừa quấy rối, tiêu hao địch ở sau lưng chúng, vừa đập tan được các đột tiến công quy mô của địch, vừa có thể liên tục thực hành tiến công cục bộ, từng bước đẩy quân thù vào tình thế khó khăn. Kết hợp tác chiến các loại quân và kết hợp đánh nhỏ tiêu hao với đánh lớn, tạo thời tạo thế phản công tiêu diệt giặc là phương pháp tác chiến đúng đắn, có hiệu quả trong cả hai lần kháng chiến chống Tống.
2. Chiến thuật
Trong hai cuộc kháng chiến chống Tống đã xuất hiện nhiều hình thức chiến thuật như đánh chặn, tiến công bao vây các đồn trại, dựa vào chiến tuyến đánh phòng ngự, thực hành phản đột kích, đánh phục kích, tập kích tiêu hao địch, rồi cuối cùng là những trận đánh tập trung, đánh, đánh tiêu diệt và truy kích quân địch. Trong chiến tranh, tổ tiên ta đã vận dụng các hình thức tác chiến phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu trong từng khu vực, từng địa bàn, cả trên bộ và trên thủy.
Trong cuộc tiến công sang đất Tống (1075), Lý Thường Kiệt đã khéo léo vận dụng phổ biến hình thức chiến thuật tập kích, đánh úp, đánh bất ngờ. Nhờ đó, quân đội Đại Việt đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: hàng loạt thành trại của giặc đã bị hạ. Trường hợp đối với thành Ung châu - căn cứ lớn nhất và chủ yếu của giặc, có thành vững với lũy cao hào sâu và do 5 vạn quân trấn giữ, Lý Thường Kiệt đã kiên quyết dùng cách đánh “cường công”, tức đánh thành bằng sức mạnh. Các kỹ thuật, chiến thuật công thành thời ấy đều được áp dụng: dùng vân thê vượt tường thành đánh vào, cho quân đào hầm từ dưới đất đánh lên, dùng hỏa tiễn (tên lửa) làm kế “hỏa công” đốt phá trại giặc, rồi đắp đất cao ngang tường thành để trèo lên v.v... Đáng chú ý là Lý Thường Kiệt, trong khi đánh thành còn kết hợp với diệt viện và kết quả của trận tiêu diệt một vạn viện binh địch ở cửa Côn Luân đã tác động mạnh mẽ và tạo điều kiện thuận lợi cho trận công phá thành Ung. Trận đánh thành Ung là trận công thành bằng sức mạnh đầu tiên trong lịch sử quân sự dân tộc, chứng tỏ ông cha ta đã đạt đến trình độ cao trong chiến thuật công thành ở thời bấy giờ.
0
1
Đỗ Chí Dũng
24/08/2020 09:00:46
+3đ tặng

Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt hay Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ và nhà Nguyên. Tuy thời gian của cuộc kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288 nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần 9 tháng, chia làm 3 đợt. Trước, giữa và sau các đợt chiến sự là thời gian tiến hành tích cực các hoạt động ngoại giao. Kết quả là Đại Việt bảo vệ được nền độc lập của mình nhưng trên danh nghĩa phải chịu làm một nước triều cống của nhà Nguyên để tránh xung đột trong tương lai. Ba cuộc kháng chiến này được xem là một trong những trang sử hào hùng nhất của người Việt Nam, và cũng là chiến công tiêu biểu của triều đại nhà Trần.

Hoàn cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1225, dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, nữ hoàng nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là vua Trần Thái Tông. Nhà Trần chính thức thay nhà Lý. Sau khi chính thức nắm quyền cai trị Nhà Trần ra sức củng cố nội chính và chấm dứt nạn cát cứ từ cuối thời Lý. Tới năm 1229, sau khi Nguyễn Nộn ốm chết, các lực lượng chống đối cơ bản bị dẹp.

Trong khi đó ở phương Bắc, Trung Quốc từ lâu đã bị chia cắt. Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống.

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm Vương quốc Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối mà lại còn cho bắt giam các nhà ngoại giao Mông Cổ.

Chiến tranh nổ ra vào đầu năm 1258 khi Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) cùng con trai là Aju đem 3 vạn quân người Mông Cổ và 1,5 vạn quân người Đại Lý tấn công Việt Nam. Quân Mông Cổ đã mau chóng giành được thắng lợi, chiếm được kinh đô Thăng Long, nhưng rồi cũng mau chóng bị quân Đại Việt đánh bật. Cuộc chiến năm 1258 chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, đến cuối tháng 1 năm 1258 thì quân Mông Cổ thất bại và rút hết khỏi Đại Việt.

Hai mươi năm sau, không cần đi đường qua Đại Việt, Mông Cổ vẫn đánh bại được nước Tống. Nhà Nguyên được thành lập trên lãnh thổ Mông Cổ và Trung Quốc ngày nay. Đế quốc này tìm cách mở rộng lãnh thổ của mình ra phía đông tới Nhật Bản, và xuống phía nam. Để thực hiện ý đồ tiến xuống phía nam, Nhà Nguyên đã tiến hành chiến tranh với Chiêm Thành và Miến Điện trước. Nhưng quân và dân Chiêm Thành đã kháng chiến thắng lợi, khiến cho quân Nguyên không thực hiện được ý đồ lấy Chiêm Thành làm bàn đạp. Ở Miến Điện năm 1277, quân Mông Cổ cũng chịu những thiệt hại quân sự và phải rút lui. Đại Việt trở thành nơi phải bị khuất phục để quân Mông Cổ có thể tiếp tục chiến lược hướng nam. Dưới chiêu bài đề nghị Nhà Trần mở đường cho đại quân Nguyên đi qua chinh phạt Chiêm Thành, quân Nguyên tìm cách tấn công Đại Việt.


 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Lịch sử Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư