Là một bài ca dao hay về ý đẹp về lời.
- Với thể thơ lục bát gián thất biến thể, bài thơ không tuân thủ một quy cách nào về thi luật nhưng lại là một ưu điểm trội bậc vì nó đã góp phần tạo nên tính phong phú về nhạc điệu trong lời thơ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc diễn xướng, vì đặc trưng của ca dao, dân ca là hát lên, nhưng nhịp thay đổi từ nhịp chẵn: 4/2 (Trèo lên cây bưởi / hái hoa), 4/4 (Bước tới vườn cà / hái nụ tầm xuân), chuyển sang nhịp lẻ chẵn ¾ (nụ tầm xuân / nở ra xanh biếc) và từ vần bằng của lục bát chuyển sang hiệp vần trắc song thất: hoa / cà (lục bát), biếc / tiếc (thất bát). Tác giả lại bồi thêm cách láy lại ở câu 3 “nụ tầm xuân
- nụ tầm xuân” và các câu sau cũng theo các kết cấu vần điệu mới mẻ như thế
-> bài thơ có âm điệu ngọt ngào tha thiets làm xúc động người nghe.
- Hình ảnh bài thơ là chất liệu lấy từ cuộc sống dân dã thường ngày ở nông thôn: Cây bưởi, vườn cà, hoa tầm xuân, chim, cá… nên tạo cảm giác rất thân quen. Rất quen nhưng cũng rất lạ lẫm mới mẻ vì nụ tầm xuân hống, trắng ngày thường bỗng biến thành xanh biếc. Cho nên nó nói giản đơn mà lại rất ẩn dụ, chỉ nói “Nụ tầm xuân” thôi cũng đã ẩn dụ cho tình yêu, cho vẻ đẹp người con gái rồi, huống chi “nụ tầm xuân xanh biếc”, càng gợi vẻ non tơ tươi trẻ đến mức quá hồn nhiên, vậy mà “em đã có chồng” rồi. Cho nên cảm giác “tiếc” càng xót buốt tận tâm can. Cái màu xanh ấy mới lãng mạn trữ tình biết bao! Cái màu xanh ấy mới xao xuyến gợi thương gợi nhớ. Cái thương nhớ một thời trẻ trung nhiều kỉ niệm của đôi trai làng gái quê cùng xóm cùng làng. Vậy mà họ không kịp lấy nhau vì chàng trễ nãi,không ngờ nàng phải lấy chồng ngay trong cái độ chưa chín, cái độ còn non tơ “xanh biếc” (“Lấy chồng từ thuở mười ba”… là phong tục xưa mà). “Tiếc lắm thay” mối tình xanh ngời ngợi! Câu thơ buông xuống như tiếng thở dài nghẹn ngào cho nên chàng trai không có thêm được lời nào. Cái im lặng của chàng trai ở đây thể hiện trình độ nghệ thuật tinh tế của người nghệ sĩ dân gian… Là cả một sự trải nghiệm về tình yêu và cuộc đời. Có những lúc sự im lặng là vàng. Nó nói lên tất cả mọi điều mà ngôn từ không còn khả năng biểu hiện. Tuyệt hay. Đó chẳng phải là chất ngọc vẻ ngọc hay sao?
- Biện pháp tu từ so sánh, kết hợp với lối điệp liên hoàn và song hành ở cuối bài thơp góp phần khẳng định cái chất ngọc của ca dao, nó gợi lên một cách đầy đủ và sống động cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam xưa: Có chồng theo sự ép buộc của cha mẹ hoặc theo sự cưỡng đoạt của nhà giàu, người phụ nữ xưa phải sống không tự do, không hạnh phúc, bị trói buộc như nô lệ. Cách so sánh quen thuộc nhưng rất hay. Bởi “chim lồng, cá móc câu” thì còn mong gì đươc tự do, còn mong gì được sống theo ý mình.Tâm trạng đau khổ, tiếc hận cuộc đời bế tắc không lối thoát, không ánh sáng tương lai thể hiện rất rõ trong lời than của cô gái làm nao lòng người nghe, làm nhức nhối đến tận tim gan chàng trai.
- Chỉ có 10 câu ca dao mà người xưa đã gợi lên cả một vấn đề lớn, tình yêu đôi lứa và thân phận con người. Sự đồng cảm của tác giả đã tạo nên một giá trị nhân đạo cho ca dao, lời tiếc nuối của chàng trai và lời than trách phận của cô gái tạo nên giá trị nhân bản cho ca dao. Các biện pháp nghệ thuật tinh tế nâng cánh cho bài ca dao mang những giá trị hiện thực, nhân bản, nhân đạo quý giá ấy vượt bức tường thời gian để đến với chúng ta ngày nay