Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

02/11/2020 19:49:12

Hãy kể lại trận chiến đánh đồn Ngọc Hồi và Hà Hồi của quân Tây Sơn mùa xuân năm 1789 qua Hoàng Lê nhất thống chí hồi 14

hãy kể lại trận chiến đánh đồn ngọc hồi và hà hồi của quân tây sơn mùa xuân năm 1789 qua hoàng lê nhất thống trí hồi 14

3 trả lời
Hỏi chi tiết
569
0
1
Macchiato
02/11/2020 19:49:56
+5đ tặng

Nhà Tây Sơn gồm 3 anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỉ XVII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược nước ta; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương, Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp nghĩa là nước ta mất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.

Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại, xin ngài trước hết hãy chính vị hiệu; loan lệnh ân xá khắp trong ngoài nước để yên kẻ phản trắc và giữ gìn lòng dân rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc thuộc là chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngoài khoác lên mình chiếc long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu đội mũ miện cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang lên đàng tế lễ trời đất. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đổi năm 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu tiên niên hiệu Quang Trung.

Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng Chạp (1788). Vua Quang Trung đã tự mình đốc thúc quân lính cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 ở Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp người có tài tiên đoán để hỏi về mưu đánh và giữ Nguyễn Thiếp trả lời: chuyến này đi không quá 10 ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng hám hổ đầu tuyển lính ở Nghệ An. Cứ ba suất đinh thì lấy một người ai cũng có thân hình vạm vỡ bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn người, quân tinh nhuệ hàng ngũ thẳng tắp, cờ trống rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn chia làm tiền, hữu, tả, hữu là số quan ở Thuận Hóa, Quảng Nam. Còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại an ủi quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa. Nghe xong các quân lính đều xin vâng lệnh, không dám ăn ở hai lòng. Hôm sau, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.

Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân đều ra đón, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua phân tích rõ công và tội của Sở và Lân. Vua đã cho Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc cùng Sở và Lân nhằm mục đích bày mưu tính kế. Vua Quang Trung lại nói lần này phương lược tính sẵn rồi chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng gấp mười lần nước mình thua đau sẽ trả thù đời thì đời sống của nhân dân sẽ vô cùng khốn khổ vì nạn binh đao. Chờ mười năm nữa nước ta lớn mạnh có sợ gì chúng. Bọn Sở và Lân đều lạy tạ, trong lòng chúng thấy rất rõ sự am hiểu, quân lệnh nghiêm chỉnh và vô cùng cảm kích trước sự vị tha độ lượng của vua Quang Trung. Đêm 30 tháng Chạp vua cho mở tiệc ăn khao quân, chia quân làm ba đạo và bảo kín với các tướng đêm lập tức lên đường hẹn ngày mùng 7 năm tới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Giọng nói người sang sảng âm vang khắp quân lính. Xong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra bắc. Để giữ sức cho binh lính vua cho dùng cáng làm võng cứ 2 người khiêng 1 người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài nhưng vì lòng yêu nước yêu tổ quốc nghĩ đến lời an ủi của vua binh lính lại phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa binh giặc trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt vừa cho binh lính chạy theo bắt sống được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai về báo tin. Việc tiến quân của ta là hoàn toàn bí mật đến đồi Hà Hồi, Ngọc Hồi.

Nửa đêm ngày mùng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789) vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc lặng lẽ vây kín làng rồi dùng kế nghi binh bắc loa truyền gọi: "Quân". Tiếng quân lính luân phiên nhau:

- Dạ...dạ...

Vang khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy run lẩy bẩy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết. Vua lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm thành 1 bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác dùng binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng phun khói lửa ra, khói tỏa mù mịt, cách gang tấc không nhìn thấy gì hòng làm quân ta hoảng loạn. Không ngờ trời bỗng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo 2 bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy toán loạn giày xéo lên nhau mà chết. Tên Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối quân Thanh đại bại.

Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê yên duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía Đông. Đến lúc ấy, quân Thanh đều hết hồn vía, vội vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành lại nói không nghe thấy tin cấp báo nên trong này Tết mọi người chỉ chăm chú đến yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổ. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy. Quân Sĩ nghe tin hoảng hồn, tan tác bỏ chạy đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính rơi xuống nước đến nỗi nước ở sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Quân ta ăn mừng chiến thắng vô cùng giòn giã.

Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước ta là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Hằng năm dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh rất thần tốc.


Kể lại trận chiến trên cầu Hoàng Mai - Nghệ An năm 1966

Lịch sử quân sự Hoàng Mai còn ghi rõ những trận đánh trên mảnh đất kiên cường này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Trong những dòng lịch sử đó, có tên Đỗ Lương Bằng, có cả thế trận chiến tranh nhân dân.

Trung tá Trần Quốc Mỹ kể lại cho chúng tôi nghe về một trong những trận đánh tại trận địa pháo năm xưa. Giọng ông chậm rãi, đôi mắt rực sáng khi hướng về những chiến công năm ấy.

…13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một tốp máy bay trinh sát A3J và F4H từ phía biển bay vào Khe nước Lạnh trinh sát khu vực Hoàng Mai. 2 đơn vị cao xạ pháo C214, D14, F34, cùng với lực lượng chiến đấu kịp thời nổ súng bắn trúng chiếc máy bay A3J. Trúng đạn, chúng cố nhoài theo hướng Đông Nam để chuồn ra biển. Nhưng đến địa phận xã Quỳnh Liên, chiếc máy bay bốc cháy nghi ngút và rơi làm 3 mảnh.

Hai tên phi công nhảy dù xuống cách bờ biển khoảng 2.000m. Đài quan sát ở Hòn Ói lập tức báo tin: máy bay rơi ở tọa độ 200 07’, giặc lái rơi ở tọa độ 210 77’ 2". Cả vùng bãi Ngang không ai bảo ai đều hô to: “Máy bay địch cháy, bắt sống phi công bà con ơi”.

Các xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương… đã phối hợp với lực lượng chủ lực, huy động mọi phương tiện vũ khí ra khơi bắt giặc lái.

Các chiến sĩ cảm tử trước khi ra đi đã gửi lại gói quần áo cho đồng chí mình và trao đổi nhanh: “Nếu tôi có hy sinh thì đưa lại cho bố, mẹ tôi và nói rằng tôi hy sinh vì đã hoàn thành nhiệm vụ…”, đội hình chiến đấu được triển khai theo hình chữ V, mỗi thuyền cách nhau 100m nhằm thẳng mục tiêu lướt tới. Trên bờ, lực lượng triển khai đội hình sẵn sàng phối hợp chiến đấu. Các thuyền, máng của các xã xung quanh được xuất phát.

Trong lúc chúng ta đang tiếp cận mục tiêu để bắt gọn 2 tên giặc lái, địch đã tổ chức đội hình ứng cứu, huy động đủ các máy bay chiến đấu: 2 máy bay A6A, 4 máy bay C123, 1 trực thăng và 5 tàu chiến trực cách bờ biển 20km, sẵn sàng ứng cứu, giải thoát cho phi công Mỹ.

Trong lúc thuyền áp sát mục tiêu, chúng cho bọn AD6 ồ ạt bao vây các thuyền. Các chiến sỹ cảm tử vẫn không hề nao núng, vẫn bám sát mục tiêu bao vây, khép chặt giặc lái. Hai thuyền chủ lực vượt trước, quay trở lại tạo thành thế gọng kìm, thuyền thứ 3 lao tới áp đảo nổ súng. 17 giờ 17 phút, ngày 3/2/1966, 2 tên giặc lái Mỹ: Hen Béc Rô Mác Rôn, Đại uý và Rôbét Hanson Trung uý bị bắt.

Ghi lại chiến công của những người lính cao xạ và toàn thể quân dân đóng quân trên địa bàn Quỳnh Lưu ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng đã viết vào nhật kí: “Ngày kỷ niệm thành lập Đảng tròn 36 tuổi, tối qua đơn vị phát động thi đua lập thành tích chào mừng ngày kỷ niệm thành lập Đảng, nhất là trong chiến đấu. Không khí thi đua sôi nổi hào hứng trong toàn đơn vị. Vừa hết giờ nghỉ trưa. Tiếng động cơ xuất hiện hướng 14. Lúc này là 13 giờ 5 phút, một máy bay phản lực A3J bay vào bắt mục tiêu ở cự ly 5000m và 4000m, đơn vị nổ súng. Đầu máy bay Mỹ bị bốc cháy vỡ thành 3 mảnh, cháy đỏ cả góc trời, rơi tại đất liền giữa tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân địa phương… bọn mình thật phấn khởi quá. Hò reo ầm ĩ cả trận địa. Chả là vì sau hơn 2 tháng, hôm nay mới nổ súng, lại bắn cháy ngay từ điểm xạ đầu”.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
HoangNguyen
02/11/2020 19:50:17
+4đ tặng

Cuối năm Mậu Thân (1788), nhân dân Thăng Long và Bắc Hà phải chịu đựng những ngày tháng đau thương, tủi nhục vì nạn ngoại xâm. Lợi dụng sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, 290 nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Quân đồn trú Tây Sơn do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, đã theo kế sách mưu trí của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn.

Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm đóng quân ở Thăng Long để nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị mọi mặt thật chu đáo rồi sau tết sẽ "tiến vào tận sào huyệt của giặc, bắt sống Nguyễn Huệ" (Hoàng Lê nhất thống chí), Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị và bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long, nhất là hướng đường thiên lý và đường thượng đạo mà quân Tây Sơn có thể bất ngờ tiến công. Trên hai hướng phòng ngự này, đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa giữ vị trí then chốt.

Những ngày giáp tết năm đó, nhân dân kinh thành đã chứng kiến biết bao tội ác của quân giặc: ''kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức, cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả"; và sự phản bội hèn mạt của bọn bán nước: ''nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay, chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế" (Hoàng Lê nhất thống chí).

Nhưng cũng trong thời gian đó, tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 Mậu Thân (21/12/1788) Quang Trung nhận được tin cấp báo và ngày hôm sau làm lễ xuất quân. Với những phán đoán tình hình và công việc chuẩn bị được trù liệu trước, chỉ trong vòng 35 ngày từ 25/11 đến 30/12 Mậu Thân (22/12/1788 - 25/1/1789), trên đường hành quân và tập kết đại quân ở Tam Điệp, Quang Trung đã hoàn tất mọi việc chuẩn bị cho chiến dịch đại phá quân Thanh. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng Long gần 90km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Sau 5 ngày đêm tiến quân thần tốc, đạo quân chủ lực của Quang Trung đã phá tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng đường thiên lý tiến về Thăng Long. Mờ sáng mùng 5 tết (30/1/1789), đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi - Đầm Mực.

Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long.

Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với cả một lực lượng dự bị khá lớn ở tổng hành dinh, những viên chủ soái quân Thanh đành phải tháo chạy trong cảnh hoảng loạn và tan rã. Trên đường tháo chạy, chúng lại bị một cánh quân Tây Sơn khác chặn đánh ở vùng Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng Giang và bị bồi thêm những đòn tổn thất nặng nề.
35 ngày chuẩn bị trên đường hành quân dài khoảng hơn 500 km từ Phú Xuân đến Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài khoảng 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt mức kỷ lục về tính thần tốc trong hành quân chuẩn bị và tiến công tiêu diệt địch.
Đại thắng Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 là một trong những vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Đó là chiến thắng tiêu biểu cho đỉnh cao của sự phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được tạo nên bằng sức mạnh quật khởi của nông dân kết hợp với sức mạnh yêu nước và đoàn kết của cả dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn lập nên vũ công mùa xuân đó có những người đã tham gia dấy nghĩa từ đất Tây Sơn, có những con các em dân tộc Tây Nguyên chuộng tự do phóng khoáng, có những người dân khắp mọi miền của đất nước đã tự nguyện đứng dưới lá cờ nghĩa Tây Sơn, có những trí thức yêu nước như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp... những võ quan cũ của chính quyền Lê - Trịnh như Đặng Tiến Đông..., những tướng soái Tây Sơn đã đày dạn chiến trận như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết... .

Đó là chiến thắng của quân đội Tây Sơn với quyết tâm và ý chí đánh cho nó ''chích luân bất phản", đánh cho nó ''phiến giáp bất hoàn", đánh cho ''sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. ý chí đó lại được nhân dân hết lòng giúp đỡ. Và như chúng ta đã biết, trên đường hành quân chiến đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã cho con em mình gia nhập nghĩa quân, đã tiếp tế lương thực, giúp các phương tiện vượt sông...

Nhân dân các làng xã quanh Thăng Long đã giúp quân Tây Sơn bí mật giấu quân ém sát đồn giặc, góp ván gỗ làm mộc công phá đền Ngọc Hồi, đã phối hợp làm trận rồng lửa trong trận diệt đồn Đống Đa...
Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận lợi hại kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, Quang Trung với số quân chỉ hơn 10 vạn, nhưng đã đặt Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải chấp nhận sự thảm hại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) biểu thị tập trung thiên tài quân sự của Quang Trung Nguyễn Huệ.

Cũng ngay sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích dùng mọi biện pháp ngoại giao mềm mỏng và tích cực để nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh. Chỉ trong vòng nửa năm, hai bên đã thông sứ bộ và sau đó, quan hệ bang giao và buôn bán giữa hai nước đã được khôi phục.

0
0
Nguyễn Nam
02/11/2020 19:50:45
+3đ tặng

Quay ngược thời gian trở về thời kì phong kiến của nước ta, giai đoạn mà vua Quang Trung đại phá quân Thanh giúp bảo vệ đất nước khỏi nguy cơ bị xâm chiếm từ thế lực phương Bắc đó là trận chiến sống còn Ngọc Hồi - Hà Hồi diễn ra vào năm 1789.

Nước Đại Việt giai đoạn cuối thế kỷ 18 chia cắt với nhiều thế lực chia nhau chiếm giữ đất nước. Lê Chiêu Thống ở phía Bắc thất thế bèn cầu cứu nhà Thanh, lấy cớ “phù Lê” quân Thanh tiến vào nước ta mà không hề tổn hại một binh lính. Năm 1788 Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung, vua họp bàn và quyết định tiến quân ra phía Bắc, trở thành cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử.

Trước khi xung trận vua Quang Trung động viên tinh thần của các binh lính, đêm 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và 30 Tết đánh đồn Hà Hồi. Đồn Ngọc Hồi vấp phải sự khó khăn nguyên nhân thành vững chãi, thủ dễ công khó, vì vậy quân ta chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười binh lính khiêng một bức, lưng mỗi người đều có dắt dao ngắn để dễ bề hành động khi giáp lá cà, triển khai đội hình theo chữ “nhất”, phía sau là dàn binh lính do chính nhà vua chỉ huy, có nhà vua trực tiếp lãnh đạo khí thế quân Tây Sơn rất mạnh mẽ.

Trận đánh đồn Ngọc Hồi diễn ra lúc rạng sớm, tờ mờ sáng quân Tây Sơn bao vây đồn mà quân địch không hay biết, khi phát hiện bị bao vây quân Thanh bắn mũi tên lửa và bị cản bởi tấm ván, thời tiết lúc này có gió Bắc nên quân địch bắn tên lửa khiến khói mù mịt nhưng đột nhiên trở gió Nam thổi ngược lại càng khiến quân địch hoảng loạn. Trước tình hình rối ren đó quân Tây Sơn thừa thắng xông vào, phía trước có ván bảo vệ, phía sau là đội quân áp sát, tiếng va chạm gương, giáo, mác thật ác liệt. Nhờ lợi thế về tình hình thời tiết, địa hình quân ta giành ưu thế. Vua Quang Trung ngồi trên voi, dẫn đường, đạo quân cứ thế xông lên tiêu diệt địch một cách dễ dàng.

Bị bao vây, mai phục đồn Ngọc Hồi chịu cảnh thất thủ, quân địch chết la liệt, Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử, quân còn lại chạy bán sống bán chết, số quân địch còn lại bị bắt làm tù binh.

Sáng mùng 5 tiến công và chỉ trưa quân Tây Sơn chiếm xong đồn Ngọc Hồi, vua cùng quân đội tiến vào thành trong sự chào đón nhiệt liệt của người dân. Cuộc hành quân thần tốc, khiến kẻ địch không kịp trở tay và tài lãnh đạo tài tình, chiến lược của nhà vua giúp quân Tây Sơn giành chiến thắng vang dội.

Mỗi cuộc trận chiến đều có sự lãnh đạo tài tình, chiến lược tài giỏi và tinh thần của quân đội đó là những yếu tố giúp vua Quang Trung làm nên chiến thắng lịch sử.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo