Sách giáo khoa Văn học lớp 10 (chỉnh lý hợp nhất năm 2000), trình bày trong bài Khái quát văn học Việt Nam từ TK X – hết TK XIX, có mục III: Mấy yếu tố lớn về hình thức.
Ở đó, có ba ý:
1. Yếu tố Hán và yêu cầu dân tộc hóa hình thức văn học
2. Tính quy phạm và việc phá vỡ tính quy phạm
3. Phạm vi và quy mô kết tinh nghệ thuật của văn học
Trong đó, mục 2, tác giả sách giáo khoa viết:
Tính quy phạm thể hiện ở quan điểm nghệ thuật rất coi trọng mục đích giáo huấn của văn học, ở tập quán và tư duy nghệ thuật là quen nghĩ và phải nghĩ qua những kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn, đã thành công thức. Về mặt hình thức, tính quy phạm đó thể hiện ở việc sử dụng các thể loại văn học có lối kết cấu định hình, có niêm luật chặt chẽ và thống nhất, ở cách sử dụng văn liệu, thi liệu đã thành những motif quen thuộc. Tính quy phạm còn là việc đề cao phép đối (…), tính quy phạm như trên đã tạo ra một kiểu ước lệ mang đặc điểm riêng là thiên về công thức, trừu tượng, nhẹ về tính cá thể, cụ thể trong nghệ thuật.
Nhưng cha ông cha ta trên đường sáng tạo văn học, đã từng bước tìm cách phá vỡ tính quy phạm đó để cho hồn thơ, tài thơ, hồn văn, tài văn của mình nở hoa kết trái tự nhiên lắm màu sắc hơn, ngọt dịu hơn. Việc sáng tạo ra ba thể: thơ lục bát, song thất lục bát và hát nói, việc tăng cường khai thác kho tàng ngôn ngữ dân gian, việc phát huy ý thức văn học phản ánh cuộc sống, cùng với khuynh hướng dân chủ hóa trong văn học, … tất cả đã dần dần phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại [89 – 90]
Trong Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, chuẩn kỹ năng môn Ngữ Văn 10, do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, phần Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, chương trình nâng cao trình bày:
(…) Những đặc điểm cơ bản về nghệ thuật: tính sùng cổ, tính tượng trưng và ước lệ; sáng tác với tính quy phạm chặt chẽ nhưng cũng luôn phá vỡ tính quy phạm để tạo nên những sáng tạo độc đáo. [trang 139, NXB Giáo dục, 2010]
Trong Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, GS. Lê Trí Viễn dùng một lượng trang khá lớn để làm sáng tỏ khái niệm này. Ông cho rằng: Quy phạm với nghĩa thường nhất là đảm bảo ở một nơi nào đó hoạt động có tổ chức, nề nếp đạt hiệu quả cao. Nó là biểu hiện của văn minh, văn hoá ở mỗi con người, ở một cộng đồng, ở cả một xã hội. Dùng một thuật ngữ xưa thì nó là biểu hiện của chữ “lễ”. [227], đến phần “quy phạm trong văn học”, tác giả viết “quy phạm có mặt từ cái nhỏ đến cái lớn, bất kỳ đâu cũng có khuôn phép”; sau đó, ông dành nhiều trang viết để phân tích tính quy phạm trong thơ “cận thể” (Đường luật).
Từ điển thuật ngữ văn học, không khái niệm này. Từ điển văn học (bộ mới), và 150 thuật ngữ văn học mục quy phạm nghệ thuật, đều của tác giả Lại Nguyên Ân, ông viết: Khái niệm chỉ hệ thống những biểu trưng và ngữ nghĩa nghệ thuật được quy chuẩn, cố định hóa. Quy phạm nghệ thuật có vai trò lớn đối với những thời đại văn hóa được tổ chức nghiêm ngặt, chủ yếu là văn học cổ đại và trung đại, trước thời đại chủ nghĩa lãng mạn.
Sau đó, ông viết tiếp: Vấn đề lý giải một cách phi quy phạm là vấn đề thường mang tính thời sự và có tác dụng tích cực trong văn học thế giới (…) Khi các cơ sở hệ tư tưởng mất đi, khi các chuẩn mực thẩm mỹ chung bị tan rã, quy phạm sẽ không còn tồn tại như một chỉnh thể thống nhất. [1485 – 1486]
Từ những vấn đề trên chúng tôi đưa ra những nhận xét bước đầu sau đây:
Thứ nhất, khái niệm tính quy phạm và sự phá vỡ quy phạm chỉ mang tính tương đối. Bởi đời sống văn học Việt Nam trung đại vốn rất phức tạp và nó coi sự hỗn dung như là một điều hiển nhiên tất yếu. Cũng chính vì thế, nhiều học giả phải dùng hai khái niệm song hành để cùng chỉ một hiện tượng, mà tính quy phá và sự phá vỡ quy phạm là một ví dụ điển hình sinh động nhất.
Thứ hai, như trên đã nói, chúng tôi cũng xin nhấn mạnh thêm rằng tuy về đề tài hay quan niệm nghệ thuật về con người nếu cố sức ta cũng có thể ít nhiều phân biệt được đâu là biểu hiện của tính quy phạm và đâu là những biểu hiện quy phạm, song rạch ròi như vậy là không nên và khó có thể mang tính chính xác khoa học. Bởi khi ấy, ta muốn tách biệt những điều mà cả nội hàm lẫn ngoại diên của nó đã rất khắng khít.
Thứ ba, chúng tôi cho rằng ngay trong một thể loại, thơ Đường luật chẳng hạn vừa có tính quy phạm, nhưng cũng vừa có sự phá vỡ tính quy phạm. Ta cũng không thể nó thể lục bát, hay song thất lục bát, hát nói (những thể loại nội sinh) là hoàn toàn phá vỡ tính quy, tính quy phạm trong từng thể loại này cũng được biểu hiện ở những mặt nhất định.
Để tiện theo dõi chúng tôi lập bảng tổng hợp nhằm đối sánh giữa tính quy phạm và phi quy phạm trong thơ Đường luật của văn học Việt Nam trung đại