Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Thuyết minh bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.736
2
3
Thiên sơn tuyết liên
28/01/2021 22:08:39
+5đ tặng

Vốn là người có học vấn uyên thâm, Nguyễn Bình Khiêm cũng đỗ đạt và làm quan một thời gian nhưng với con người chí khí, nhân nghĩa như ông, chốn quan trường bất công khiến ông chẳng thể nào ở yên được. Chính bởi vậy mà Nguyễn Bình Khiêm đã cao quan về quê lựa chọn cuộc sống ẩn dật, an nhàn. Nguyễn Bình Khiêm giỏi cả chữ Hán và chữ Nôm, ông có thể sáng tác ở cả hai ngôn ngữ. Tập thơ bằng chữ Hán nổi tiếng của ông bà “Bạch Vân am thi tập”. Còn tập thơ bằng chữ Nôm nổi tiếng của ông là “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ Nhàn là một bài thơ được tác giả viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú đường luật.



15 cặp cung hoàng đạo đã yêu nhau là không thể tách rời
Herbeauty

FNGEEN ra mắt bản sao giá cực sốc nhân dịp tết Nguyên Đán
Đồng Hồ Nam

Bí mật ít ai biết về chuyện tình của Trấn Thành và Hari Won
Herbeauty

Ngay từ tựa đền bài thơ đã gợi lên cho người đọc cảnh an nhàn của cuộc sống nơi thôn dã. Quả thực, xuyên suốt bài thơ là giọng điệu tươi vui của một tâm hồn thanh tịnh. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

 

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bằng cách sử dụng phép lặp từ “một…một…một”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ ra trước mắt người đọc một khung cảnh bình yên, giản dị tới đơn sơ của một vùng quê nghèo. Số từ một cho ta thấy cái sự một mình của tác giả nhưng nó không hề cô đơn một chút nào. Câu thơ toát lên được cái chất êm đềm vốn có của làng quê Bắc Bộ thời bấy giờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc này hiện lên là một lão nông an nhàn với thú vui tao nhã của con người đó chính là làm vườn và câu cá. Nó khác hẳn với cuộc sống quần là áo lụa chốn quan trường. Khác hẳn với cái cảnh bon chen nơi thành thị. Cuộc sống của ông bây giờ là niềm mơ ước của biết bao nhiêu người nhưng nào có bấy ai dám từ bỏ chức tước để về quê sống cảnh nhàn như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Động từ “thơ thẩn” đã tạo nên cho người đọc một cảm giác êm ái và khoan thai. Có thể thấy ông an phận với cuộc sống hiện tại và tìm thấy niềm vui riêng của mình.


Hai câu thơ tiếp theo càng làm rõ hơn bức họa về lão nông Nguyễn Bình Khiêm. Ông viết:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Sau những năm tháng từ quan về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một nhận định, một lời tuyên ngôn sống của bản thân mình. Ông nhận mình dại khi chọn nơi vắng vẻ còn những người chọn chốn quan trường mới là những kẻ khôn. Nhưng người đọc có thể cảm nhận được cái sự khéo léo trong việc sử dụng ngôn từ của ông. Ông nói người ta khôn chỉ là một cách khen tinh tế. Khen đấy mà lại như chê. Ở hai câu thơ này, ông tạo ra một tứ thơ đối lập giữa “dại” và “khôn”, giữa “vắng vẻ” và “lao xao”.  Ông chọn về nơi vắng vẻ là để tránh xa thói đời, để giữ cho vững cái tâm trong sáng, thanh cao của một con người.

Đọc tới hai câu luận tiếp theo, Nguyễn Bình Khiêm tiếp tục cho người đọc thấy được cuộc sống thanh cao, giản đơn của mình:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Chỉ với hai câu thơ thôi mà cuộc sống thường ngày của ông được bộc lộ ra hết cả. Mỗi một mùa ông đều có những món ăn riêng. Đó chẳng phải là mâm cao cỗ đầy với sơn hào hải vị như người làm quan thế nhưng những món ăn ấy ở làng quê lúc nào cũng sẵn. Chúng mang đậm hương vị của quê hương và điều đó khiến cho tác giả cảm thấy hài lòng. Mẹ thiên nhiên có lẽ cũng thật ưu ái khi mùa thu cho người măng trúc, mùa đông lại cho người giá. Cuộc sống mà thức ăn lúc nào cũng đủ đầy như vậy thì còn điều gì tuyệt vời hơn nữa?. Câu thơ tiếp theo vẫn là sự hòa hợp của tác giả vào với thiên nhiên. Một cuộc sống thanh tao quả không ai sánh bằng.


Hai câu thơ kết, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đúc kết lại cốt cách và suy nghĩ của mình như sau:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Đối với một người tài hoa và trí tuệ hơn người như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì một cuộc sống phú quý là điều không hề khó khăn. Chẳng phải chờ đến chiêm bao mới có được. Đặc biệt, ông đã từng đỗ Trạng nguyên, đã từng có những năm tháng làm quan, tiền bạc đối với ông không phải là vấn đề. Nhưng đó lại không phải là cuộc sống mà ông muốn hướng tới. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “phú quý” chỉ là “tựa chiêm bao”. Nó như một giấc mơ mà khi tàn thì con người sẽ chẳng còn gì cả. Triết lý sống ấy của ông mới thật sâu sắc. Quả thực, với những người yêu thích sự an nhàn như ông thì phú quý hư danh chỉ là thứ vô nghĩa mà thôi.

Qua 8 câu thơ, người đọc nhận thấy được cốt cách của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là người có tấm lòng yêu nước nhưng ông yêu một cách bình lặng của riêng mình.



 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
2
Gonduc
28/01/2021 22:09:28
+4đ tặng
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
(Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K