Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận nhân vật Tràng trong "Vợ nhặt"

Cảm nhận nhân vật Tràng trong "Vợ nhặt"

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
753
1
2
nminnhhh
31/01/2021 23:36:30
+5đ tặng

Nhà văn Nga I.Bônđarep từng có ý tưởng rằng “Nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột”. Ý kiến này quả đúng khi bàn về truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với tác  phẩm Vợ Nhặt nhà văn đã làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sinh động về hiện thực thê thảm ấy và lạ thay, giữa khoảng trống lay lắt,tối tăm của cuộc sống đói nghèo nhà văn đã cho ta thấy được tấm lòng của  những con người đói khổ dù đang bị cái đói, cái chết rình rập nhưng họ vẫn cưu mang, đùm bọc, yêu thương và san sẻ, cùng hướng về sự sống, về hạnh phúc và tương lai. Nó được thể hiện như thế nào qua hình tượng nhân vật Tràng?

     Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết không lâu sau nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhà văn đã tái hiện lại thời khắc lịch sử ghê rợn thê lương, nó hòa nhập giữa cõi âm và cõi trần , giữa sự sống và cái chết , giữa người và ma. Tất cả hình ảnh, âm thanh, con người hiện lên đều rất chân thực, không một chút cường điệu. Qua truyện ngắn, người đọc mang đầy đủ những xúc cảm vừa độc đáo, éo le lại đầy cảm động và tin yêu. Đi sâu vào nhân vật Tràng ta sẽ thấy tất cả hiện thực và nhân đạo mà tác giả gửi gắm.

       Nhắc đến Tràng là nhắc đến nhân vật được hóa công đẽo gọt quá sơ sài.  Tràng- nhân vật chính của truyện được Kim Lân cho xuất hiện trên nền của cái đói với bóng người “xanh xám như những bóng ma”, người sống “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Tràng có cái tên đặc biệt, một thứ đồ của thợ mộc- cái tràng. Anh được ngòi bút Kim Lân vẽ sơ sài với “hai con mắt gà gà, nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, mặt thì thô kệch, thân  hình “vập vạp”. Không những vậy đến nơi ở của anh thì cành dong rấp cổng, tấm phên rách che nhà, mảnh vườn lổn nhổn là cỏ dại. Hơn hết, Tràng lại là dân ngụ cư, một loại người mà lúc bấy giờ bị ruồng bỏ như một thứ cỏ rác của hương thôn. Rõ ràng, trong hoàn cảnh ấy Tràng chỉ có thể cùng mẹ già nương tựa nhau qua nạn đói mà khó có thể lấy một cô vợ.

      Mang ngoại hình thô kệch, xấu xí nhưng Tràng có trái tim nhân hậu, phóng khoáng. Bản thân dù đói nhưng không ngần ngại bỏ tiền mời người đàn bà hai bát bánh đúc. Anh vui vẻ đưa ba câu hò trêu chọc mà cô Thị sẵn sàng theo về làm vợ. Tràng có vợ, như một anh chàng tốt số đào hoa, chỉ buông đôi lời tán tỉnh mà đã có cô nàng vội vã theo không. Giữa cảnh trời đất tối sầm vì đói khát, những ngày nghèo đói, hai thân phận bọt bèo đã dạt đến với nhau vì khát vọng hạnh phúc lứa đôi, vì mong hơi ấm gia đình. Dẫn người vợ nhặt về nhà, Tràng ngổn ngang những suy nghĩ thời buổi này còn đèo bòng, không biết nuôi nổi không rồi lại tặc lưỡi cho qua và gương mặt hiện rõ niềm vui. Trong tác phẩm, hơn một lần nhà văn nói về hạnh phúc, nụ cười của Tràng từ e lệ cười tủm tỉm đến bật cười đầy thỏa mãn, khi thì hai mắt sáng lên lấp lánh, có lúc mặt vênh lên tự đắc với mình. Dường như anh quên hết cảnh sống ê chề hàng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang rình rập.

      Từ khi có vợ, Tràng nhận ra trách nhiệm của bản thân với gia đình. Anh biết chăm lo cho đêm tân hôn có chút dầu đèn cho sáng sủa để hạnh phúc không tối xùm trong hoàn cảnh bi đát. Ta thấy Tràng hết sức trân trọng hạnh phúc của mình. Đặc biệt trong buổi sáng đầu tiên khi đã nên vợ nên chồng, nhìn người vợ mới quét dọn sân nhà, Tràng cảm thấy ngập tràn niềm yêu thương và thấy bản thân như “lớn hẳn”, cũng như trách nhiệm cùng lớn dần lên.  

      Trong bữa cơm đầu tiên, Tràng nghe chuyện vui mẹ kể về tương lai,  biết được việc nhân dân phá kho thóc Nhật và khi ấy hình ảnh lá cờ đỏ bỗng phấp phới trong óc Tràng. Đây không phải một ước mơ viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà nó cơ sở hiện thực, chính nhà văn đã nhìn thấy mà mở ra cho nhân vật của mình một hướng đi. Rõ ràng, Tràng đã có được hạnh phúc gia đình, có hơi ấm của tình thương. Qủa đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

       Tràng cũng chính là chân dung của những người lao động sống trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Họ nghèo mà không hèn, nghèo bạc chứ không  nghèo tình. Họ luôn sống với nhau bằng chữ “tình”, bằng chân thành, bằng yêu thương, san sẻ và đùm bọc. Con người là biểu trưng của hy vọng, lạc quan, hướng về ánh sáng, nhìn đến tương lai và tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
+4đ tặng

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.

Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hòa bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.

Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.

Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy "ngượng nghịu" rồi cứ thế "đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ". Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: "hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?". Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh ngày một lớn. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới.

Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ.Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.

Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng.

Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi.. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.

Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói “ đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi “ kệ” cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ.

Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

1
0
Ni Lin
01/02/2021 20:17:16
+3đ tặng

Tác giả Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đều đi sâu vào đời sống của những người nông dân có hoàn cảnh éo le, khổ cực, bị cái nghèo, cái đói trong xã hội bủa vây. Thông qua những lời văn chân thành và mộc mạc của mình tác giả muốn tố cáo tội ác của giặc, của xã hội cũ, đề cao cuộc sống của con người.

Tác phẩm “Vợ nhặt” của tác giả được viết trong những năm 1945 khi mà nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc nước ta làm chết 2 triệu đồng bào. Ngòi bút của ông hướng tới những người nông dân vì hoàn cảnh chiến tranh phải từ bỏ quê hương mình đi tản cư ở nơi khác. Những xóm làng mới tập hợp những người ngụ cư vì thế mà được hình thành. Từ mảnh đất mới này nhiều mảnh đời đã ghép lại với nhau trở thành những người thân, gắn bó thân thiết với nhau.

Vợ nhặt xoay quanh nhân vật Tràng một con người lao động chất phác, hiền lành, nhưng nghèo đói. Anh sống với một bà mẹ già yếu tại xóm ngụ cư toàn những cư dân mới từ khắp nơi đổ về đây. Ngày ngày Tràng làm nghề kéo xe bò chở hàng thuê cho người khác để kiếm ngày hai bữa. Cuộc sống mưu sinh vô cùng khốn khó, khiến anh không lấy nổi vợ, và chẳng cô nào muốn lấy anh bởi anh nghèo quá. Nhưng rồi một ngày tình cơ Tràng nhặt được một cô vợ xinh xắn.

Câu chuyện tưởng đùa mà hóa thật. Chỉ một câu nói bông đùa của Tràng với cô gái hoàn toàn xa lạ rằng “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì lại đây đẩy xe bò với anh” chỉ một câu nói bông đùa vu vơ như vậy mà Trang đã nhặt được vợ. Cô gái không có người thân thích, sống bơ vơ một mình ngoan ngoãn ra đẩy xe cho anh rồi theo anh về nhà chung sống đời sống vợ chồng. Không có một đám cưới, không có một bữa tiệc ra mắt gia đình hai bên, không có giấy đăng ký kết hôn được chính quyền xác nhận. Họ đã thành vợ thành chồng như thế, đơn giản, mộc mạc.

Qua những lời văn đầy cảm động của mình nhà văn Kim Lân muốn thể hiện sự xót xa cảm thông của mình với những con người thiệt thòi, bất hạnh. Chuyện hệ trọng trăm năm mới có một lần nhưng trong hoàn cảnh đất nước quá nghèo khó, giặc giã triền miên nên tất cả đều phải làm qua loa đại khái.

Nhân vật Tràng chính là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm, thông qua nhân vật Tràng tác giả miêu tả những diễn biến tâm lý của nhân vật này từ những trạng thái này đến trạng thái khác. Tràng nghèo khổ, làm công việc nặng nhọc, gia cảnh thì mẹ góa con côi. Trang xuất hiện băng vài chi tiết “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến… hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra…bộ mặt thô kệch …”

Thông qua những chi tiết miêu tả về ngoại hình tính cách của Tràng khiến cho người đọc cảm nhận được Tràng là người xấu xí về ngoại hình, thô kệch về vóc dáng và là người có suy nghĩ khác người, không phải là người có học thức, ít nho nhã. Hắn nghèo, gia đình thì chẳng có của ăn của để nào của ông cha đời trước. Hoàn cảnh gia đình thì éo le, chỉ có hai mẹ con nương tựa vào nhau. Phải nói là Tràng đã nghèo lại còn xấu, không văn hay chữ tốt một người đàn ông như vậy làm sao mà có nổi vợ trong thời kỳ đất nước thái bình, không có chiến tranh, chạy loạn thì chắc chắn Tràng ế vợ cả đời.

Hình ảnh của Trang khiến cho người ta liên tưởng tới nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Nhưng Tràng có ưu điểm hơn Chí Phèo ở chỗ dù cuộc sống nhiều khó khăn, vất vả nhưng Tràng vẫn lao động kiếm miếng ăn từ mồ hôi công sức mình bỏ ra. Không như Chí Phèo làm cái nghề ai cũng coi thường mình là “Rạch mặt ăn vạ”

Người đọc có thể cảm nhận được một điểm chung của hai người đàn ông này là họ đều rất cô quạnh, bị xã hội nghèo đói xô đẩy. Cuộc sống khốn khổ đã khiến họ trở thành những con người khô cằn chai sần về mặt cảm xúc của con người.

Tuy nhiên, trong tác phẩm của mình, trong bối cảnh éo le, bần cùng đó Kim Lân đã mở ra những tình huống truyện tươi sáng, có lối thoát và có những mầm hy vọng mới cho người nông dân Việt Nam thời đó. Không như trong tác phẩm của Nam Cao số phận của người nông dân thường vô cùng bế tắc, cùng cực và có kết thúc bi thảm làm người đọc nghẹn lời.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của mình giữa thời kỳ đói khổ, tranh tối tranh sáng đó những con người bần cùng, xấu xí, thô kệch như nhân vật Tràng lại lấy được vợ mà chẳng tốn một đồng xu nào, chẳng phải mất thời gian tán tỉnh, cưa cẩm,…Anh ta có được vợ như nhặt một viên sỏi ngoài đường mang về.

Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng là tình huống truyện vô cùng đắt giá, nó là cho câu chuyện của Kim Lân trở nên có sức sống thu thu hút người đọc. Và tạo niềm tin sống cho những con người khốn khổ.

Chính những nghèo khó, cơ cực đã đẩy những con người cô đơn xích lại gần nhau gắn bó với nhau tạo thành những tổ ấm mới, xây dựng tương lai trong hoàn cảnh bần cùng của mình

Tác giả đã vô cùng tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý Trang thay đổi trước và sau khi nhặt được vợ.”Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.

Khi có vợ rồi Tràng trở nên hiền lành, dễ thương hơn, hắn vui vẻ phởn phơ khác ngày thường. Khi nhìn thấy bóng dáng người đàn bà vợ của hắn ngồi giữa nhà hắn còn chưa tỉnh cơn mà, cứ tưởng nằm mơ “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Sự thật là hắn đã có vợ dễ dàng thế sao, đến chính hắn người trong cuộc mà còn chẳng thể nào tin đó là sự thật, thì người ngoài đúng là khó lòng mà tin nổi. Nhưng rồi hắn thấy lâng lâng trong lòng, cảm thấy có một nguồn sinh khí mới thổi vào trong tâm hồn héo úa bao nhiêu ngày tháng của mình. Hắn cười và cảm thấy ngập tràn cảm giác mới mẻ.

Người vợ của Tràng cũng thế, cô nàng không có một cái tên nên cứ tạm gọi tên là thị. Trước khi làm vợ Tràng, nhân vật Thị cong cớn, có chút chua ngoa của một người phụ nữ trải qua nhiều khốn khổ, nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Thị có chút bất cần, chút liều lĩnh, bởi nếu không bất cần, liều lĩnh thì Thị sẽ không vì một câu nói bông đùa mà theo không một người đàn ông về nhà làm vợ như thế. Nhưng có lẽ cuộc sống của Thị cũng rất đáng thương, sự nghèo đói, cô đơn của xã hội lúc đó khiến Thị không có sự lựa chọn. Nên thị theo Tràng về làm vợ người ta dù không có một tiệc cưới, một mâm cơm ra mắt họ hàng, không nhẫn cầu hôn, không đăng ký. Sự nghèo đói cô đơn đã tước đi của thị quá nhiều sự ưu ái mà bất kỳ một người con gái nào khi theo chồng đều muốn có và cần có.

Duyên trời đã định đã xô đẩy những con người nghèo khổ đến với nhau. Bữa cơm đầu tiên sau đêm thành vợ thành chồng của Tràng và cô gái lạ cũng khiến người đọc phải rơi nước mắt. Một bữa cơm quá giản dị nó chỉ là một nồi cháo cám, đắng chát trong mồm, nhưng hắn vẫn ăn ngon lành tâm trạng hắn phấn khởi lắm

Người phụ nữ làm vợ hắn cũng dịu dàng đoan trang hơn rất nhiều, hai mảnh đời ghép lại với nhau để cùng hướng tới một tương lai tươi sáng. Hình ảnh kết thúc chuyện là lá cờ Việt Minh cướp kho thóc Nhật chia cho dân nghèo, là con đường ánh sáng, niềm tin vào tương lai mới cho những số phận người nông dân nghèo khổ.

Bằng ngòi bút chân thực, mộc mạc, giản dị, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn tác giả Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Qua tác phẩm người đọc thấy được tinh thần nhân văn của tác giả trước những số phận người nông dân nghèo khó.


 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×