kể tên các cuộc khởi nghĩa của nhân dân và nhận xét các cuộc khởi nghĩa đó.
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
khởi nghĩa Bắc Sơn
Ngày 27 tháng 9 năm 1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn), nhân dân đã nổi dậy chặn đánh tân binh Pháp tháo chạy về Thái Nguyên qua Bắc Sơn, đánh chiếm đồn Mỏ Nhài[1]. Xét về diện tích địa bàn có khởi nghĩa thì khởi nghĩa Bắc Sơn không rộng, nhưng xét về độ ảnh hưởng tích cực cho cuộc vận động cách mạng năm 1945 thì phải thừa nhận sức lan tỏa lớn của cuộc khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng 11 năm 1940) đã nhận định rằng “khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra đúng lúc”. Lời nhận xét đó có ý nghĩa rằng sau khi Nhật bắt đầu vào Đông Dương, quân Pháp tháo chạy ở Lạng Sơn thì ở Bắc Sơn đã có điều kiện khởi nghĩa từng phần trong điều kiện có thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi Pháp quay trở lại hay Nhật đang vào.
Ngày 16 tháng 10 năm 1940, đồng chí Trần Đăng Ninh sau khi được Xứ ủy Bắc Kỳ cử lên Bắc Sơn chỉ đạo cuộc khởi nghĩa đã ra chỉ thị thành lập đội du kích Bắc Sơn với 5 trung đội vũ trang, duy trì lực lượng để hoạt động chính trị là thượng sách[2]. Nhận định về cuộc khỏi nghĩa Bắc Sơn, đồng chí Trường Chinh đã nói: “Ưu điểm lớn nhất của nhân dân Bắc Sơn là đã kịp nổi dậy giành chính quyền khi quân đội phát xít Nhật xâm lược Lạng Sơn và hàng ngũ quân Pháp cùng bè lũ tay sai đã hoang mang, dao động đến cực điểm”[3].
Đến khởi nghĩa Nam Kỳ
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23 tháng 11 năm 1940 là cuộc nổi dậy rộng lớn nhất trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược sau khởi nghĩa Trương Định năm 1859. Nội thành Sài Gòn không nổ súng nhưng Chợ Lớn, Gia Định và các tỉnh khác của Nam Kỳ đã nổi dậy như triều dâng thác đổ.
Khởi nghĩa Nam Kỳ. (Ảnh tư liệu)Cuộc khởi nghĩa không thành công, thực dân Pháp khủng bố khởi nghĩa Nam Kỳ dữ dội hơn nhiều lần khởi nghĩa Yên Bái, Xô viết Nghệ - Tĩnh. Tổn thất của cách mạng cực kỳ lớn, chưa có sách nào ghi lại đầy đủ những chương bi kịch về bản tráng ca hào hùng năm ấy. Sau thất bại khởi nghĩa Nam Kỳ, những người lãnh đạo và đảng viên cộng sản còn lại đã rút kinh nghiệm xương máu từ chính cuộc khởi nghĩa. Thời cơ cách mạng chưa chín muồi là vấn đề đầu tiên được các tài liệu sống tham gia khởi nghĩa đặt ra khi nói về thất bại của cuộc khởi nghĩa.
Chính Xứ ủy Nam Kỳ cũng nhận thấy rằng các điều kiện chưa đầy đủ để phát động khởi nghĩa vũ trang. Ngày 8 tháng 10 năm 1940, Thường vụ Xứ ủy đã gửi chỉ thị cho các tỉnh ủy hãy khoan phát động khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện, nếu khởi nghĩa non sẽ thất bại như hồi 1930-1931[4]. Tại Hội nghị Xứ ủy tháng 9 năm 1940 đã nhận định về chủ quan thời cơ chưa chín muồi nhưng nếu không khởi nghĩa thì có hại, quần chúng sẽ tan rã mất tinh thần, nếu ta lùi bước quần chúng sẽ xa rời Đảng, Đảng sẽ mất ảnh hưởng và mất tín nhiệm trong quần chúng. Do vậy, Thường vụ Xứ ủy vẫn quyết định hạ lệnh khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ mặc dù diễn ra trên địa bàn rộng lớn nhưng vẫn là cuộc khởi nghĩa địa phương, ở Nam Kỳ và chỉ một phần Nam Kỳ thôi. Khởi nghĩa Nam Kỳ do một mình Xứ ủy Nam Kỳ quyết định, Trung ương có biết, không chuẩn y, yêu cầu hoãn nhưng chỉ thị về đến không kịp. Lẽ ra nếu biết chỉ đạo của Trung ương tựa như chỉ đạo trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thì cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại có thể giảm, việc bảo toàn lực lượng có thể thực hiện.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |