“Đất là mẹ”. Luận điểm quan trọng này chạy suốt bài văn, và riêng ở phần đầu bức thư, nó mở ra một quan niệm hoàn toàn mới mẻ. Vì sao “mỗi tấc đất là thiêng liêng”, nghĩa là một khái niệm vật chất đã được tinh thần hoá ? Vì một mặt, “mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương…” đối với người dân da đỏ đã trở nên không khí trong lành để sống, để hít thở hằng ngày. Và một mặt khác, nó là trí tuệ, là khái niệm. Đất vừa là không gian vừa là thời gian, và tất cả điều này đã trở nên máu thịt : “Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang trong đó kí ức của người da đỏ”. Câu văn chân thành như một lời tâm niệm, một tiếng nói trung thực tha thiết của lương tâm. Hình ảnh bà mẹ trở đi trở lại nhiều lần ở đoạn văn nhằm khẳng định quan hệ huyết thống, mà khi đã có quan hệ huyết thống thì không thể chia cắt, tách rời : “Chúng tôi là một phần của mẹ, và mẹ cũng là một phần của chúng tôi”. Người với bông hoa là chị, là em : người với mỏm đá, vũng nước,… đều cùng chung một gia đình. Dòng nước đâu chỉ là những giọt nước, nó là “máu của tổ tiên chúng tôi”. Tiếng thì thầm của nó chính là “tiếng nói của cha ông chúng tôi”. Luận điểm quan trọng này một mặt phản ánh quan hệ cộng sinh giữa con người với môi trường sống từ buổi sơ khai, nhưng một mặt nó xác nhận một quy luật trường tồn : con người muốn tồn tại, phải dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Và như thế, đồng thời nó dự báo những nguy cơ : con người sẽ tự huỷ diệt nếu những khế ước thiêng liêng giữa con người với môi trường đã được thiết lập một cách tự nhiên bị xâm phạm. Và không dưới hai lần, khế ước tinh thần ấy được gọi tên một cách nôm na là “kí ức của người da đỏ”.