Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hình ảnh "dòng nước mất" của người mẹ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Hình ảnh "dòng nước mất" của người mẹ trong truyện ngắn “Vợ nhặt" (Kim Lân) và "Chiếc thuyền ngoài xa" (Nguyễn Minh Châu)

2 trả lời
Hỏi chi tiết
505
2
1
Nguyễn Hoài Dương
20/04/2021 04:59:00
+5đ tặng
. Mở bài

- Giới thiệu vài nét cơ bản về hai nhà văn.

+ Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.

+ Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn“Chiếc thuyền ngoài xa".

- Dẫn dắt vào vấn đề cần so sánh.

+ Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp văn học.

+ Hai tác phẩm khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết “dòng nước mắt” là một phương tiện biểu hiện.

2. Thân bài

2.1. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mất" trong “Vợ nhặt'' của Kim Lân

- Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết.

- Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của bà cụ Tứ - mẹ Tràng: tình huống truyện anh Tràng nhặt vợ, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ.

- Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:

+ Là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng, vừa ai oán xót xa cho số kiểp của mình và con trai mình...

+ Giọt nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời bà đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dài dằng dặc...

+ “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung trải qua đầy những khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi.

- Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con đến thắt lòng.

 

- Đánh giá.

+ Giá trị nội dung: dòng nước mắt đã the hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:

• Hiện thực: phơi bày tình cảnh thê thảm và lay lắt của xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói năm 1945.

• Nhân đạo: là sự cảm thông và thương xót; tố cáo xã hội đã vùi dập và chà đạp lên cuộc sổng của con người; trân trọng ngợi ca vè đẹp tâm hồn người mẹ.

+ Đặc sắc nghệ thuật:

• Chi tiết nhỏ nhưng mang nội dung và ý nghĩa truyền tải lớn tới người đọc.

• Diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.

2.2. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắc trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

- Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết.

- Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài: câu chuyện gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng người đàn bà hàng chài.

- Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:

+ Là biểu hiện của nồi đau đớn: gia cảnh nghèo khó bế tắc dẫn đến tình trạng bạo lực trong gia đình không có lối thoát. Từ chuyện của bố mẹ mà thằng con phạm vào tội ác trái luân thường đạo lí không thể giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lệch lạc của con đã không tìm được giải pháp.

+ Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh không hê có bất kì phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng.

-Đánh giá.

+ Giá trị nội dung: dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:

• Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kì Đổi mới 1986.

• Nhân đạo: nỗi niềm cảm thông và thương xót về cảnh đời còn nhiều ngang trái; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ.

+ Đặc sắc nghệ thuật:

• Với chi tiết nhỏ nhưng lại mang nội dung và ý nghĩa truyền tải lớn về hiện thực xã hội.

• Diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.

2.3. So sánh

a. Điểm tương đồng

- Về nội dung:

+ Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khôn khổ trong cuộc sống.

+ Đều là giọt châu của loài người, giọt nước mắt chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh.

+ Đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm:

• Phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau.

• Thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.

- Về nghệ thuật: đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sầu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc.

 

b. Điểm khác biệt

- Về nội dung: hoàn cảnh riêng về nồi niềm của hai nhân vật khác nhau - nước mắt cũng mang những nỗi niềm riêng.

+ Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhóm.

+ Còn dòng nước mat của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le. ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc.

- Về nghệ thuật thể hiện: ở thời điểm khác nhau nên việc khắc họa chi tiết dòng nước mắt của hai nhà văn có cái nhìn khác biệt.

+ Kim Lân sừ dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị.

+ Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.

2.4. Lí giải

- Vì sao giống nhau? Giống nhau về nội dung vì cùng hướng đến:

+ Từ nỗi đau dẫn đến đề xuất giải pháp cách mạng.

+ Từ vẻ đẹp tâm hồn ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống cùng là những nhà văn hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

- Vì sao khác nhau?

+ Hoàn cảnh khác và tương lai khác do được viết trong những bối cảnh khác nhau:

• Kim Lân từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhìn lại viết nên mang cảm quan lạc quan.

• Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại nên không dám chắc chắn tin tưởng ở tương lai.

+ Phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả khác biệt không trộn lẫn.

3. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của dòng nước mắt người mẹ.

- Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả trên văn đàn.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
Thiên sơn tuyết liên
20/04/2021 05:04:42
+4đ tặng

Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài

Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ. Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “ chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi

Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng, cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.

Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa” “ càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “ cái buồng kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.

Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xõa cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.

Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị chon vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Khi chứng kiến A Phủ bị trói, lúc đầu “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay… nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.

Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy. Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K