Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức...), Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc.
Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nơi ở đầu tiên của Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẫn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau. Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (...) Sức khỏe của Bác có phần giảm sút. Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (...).
Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất tự nhiên. Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được...”
Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn tất đen tối. “Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại (...) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ ra đến hai, ba chục tuổi.
Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ.
Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng Bác Hồ sống thật ung dung hòa hợp nhịp nhàng với núi rừng:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào... Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó.
Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ.
Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết câu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ. Câu thứ ba vần trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút đậm, khoẻ, sinh động:
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.
Hai chữ “chông chênh” là lừ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ “dịch sử Đảng” toàn vần trắc, thật khoẻ, gân guốc như cân lại ba câu vần bằng vang xa. Đó là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hòa lẫn trong thiên nhiên. Và thật là thú vị, vị “khách lâm tuyền” sống hoà hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại - một hình tượng thật đẹp. Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn” - trên cái bối cảnh thiên nhiên, có suối, có rừng... Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp “thật là sang”! Bài thơ kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mắt) đã kết tinh, bật sáng tinh thần của toàn bài.
Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.
4. Phân tích Tức cảnh Pác Bó - mẫu 3
Ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch, hay bên Pa-ri; đối mặt trực tiếp với gián điệp và thực dân Pháp hay những ngày trở về nước hoạt động cách mạng ta đều nhận ra con người hóm hỉnh, bông đùa, lạc quan vượt lên trên tất cả những khó khăn của đời sống ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những nét tính cách được tôi luyện trong trường đấu tranh gian khổ. Và tất cả đã đi vào thơ Bác với những nét chân thực nhất. Tức cảnh Pác Bó là một trong số những bài thơ như thế !
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Tháng 2 năm 1941, sau hơn ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Pác Bó chính là nơi Người sống và hoạt động trong những ngày đầu tiên về nước. Đó là một địa danh nằm ở vùng núi Cao Bằng, ở đây đời sống vật chất còn rất khó khăn. Đã ngoài năm mươi tuổi rồi vậy mà Người phải sống trong một cái hang rất nhỏ, muốn ra vào phải trèo lên, chui xuống, tăm tối và ẩm ướt gọi là hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhưng những thiếu thốn về vật chất không làm tinh thần Người nao núng. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh như thế.
Câu thơ đầu tiên đã mở ra một không gian – thời gian: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Không gian ở đây là những mảng không gian của vùng sơn cước: suối và hang. Thời gian có sự luân chuyển: sáng đến tối. Không gian và thời gian đều có sự thay đổi, chuyển hoá. Nhưng thực ra không phải là sự chuyển hoá sang một không gian khác, mới hơn mà là sự lặp lại của những miền không gian đã quá quen thuộc: suối và hang. Hành động của con người chỉ gói trọn trong hai động từ: ra và vào. Câu thơ không dư thừa thông tin. Nó chỉ vừa đủ để thông báo một ngày rất bình thường như biết bao ngày khác. Sáng thì ra bờ suối làm việc, tối lại quay về hang. Lời thơ cân đối, đều đặn: sáng - tối ; suối - hang, ra - vào. Sự đều đặn đó thể hiện một nếp sống, một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt.
Câu thơ thứ hai, Người nói đến sinh hoạt cụ thể nơi Pác Bó: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, “rau măng” là loại măng rừng được lấy làm thức ăn. Đó đều là những món ăn rất dân dã, đạm bạc của người dân vùng sơn cước. Ở thì ở trong hang, làm việc bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng,… một cuộc sống đầy những thiếu thốn nhưng ta vẫn bắt gặp một tinh thần lạc quan, một nụ cười hóm hỉnh qua cụm từ “vẫn sẵn sàng”. “Vẫn sẵn sàng” có thể hiểu theo hai nghĩa: “cháo bẹ rau măng” - những thức ăn quen thuộc của người miền núi lúc nào cũng sẵn có. Nghĩa thứ hai bộc lộ rõ tinh thần của nhà thơ: dù cuộc sống thiếu thốn nhưng tinh thần cách mạng luôn sẵn sàng. Với nghĩa này, câu thơ toát lên một niềm lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh sống. Câu thơ gợi nhớ đến vần thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về cuộc sống vật chất đơn sơ, giản dị của mình:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Hay ta bắt gặp ở đây nghệ thuật trào lộng khi viết về những thiếu thốn vật chất trong đời sống đã có từ thơ ca truyền thống:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
(Nguyễn Khuyến, Bạn đến chơi nhà)
Đó là nét nhân cách rất đáng trọng của những con người “an bần lạc đạo”. Nghèo khổ không hề làm họ mất đi nụ cười. Họ cười hóm hỉnh chính cái nghèo của mình. Cuộc sống bi mà không làm họ lụy. Hồ Chí Minh vẫn giữ được những nét truyền thống trong cuộc sống của mình. Bác vẫn vui với cái nghèo của cuộc đời cách mạng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn về vật chất. Phải là một con người có tinh thần và nghị lực cách mạng phi thường mới có thể tạo cho mình một phong thái ung dung trong một hoàn cảnh như thế. Dù sống trong cảnh thiếu thốn con người đó vẫn sống và hoạt động say mê:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Đến đây ta nhận ra điều khác biệt giữa Bác Hồ và các vị hiền triết xưa kia. Nếu như biết bao người: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến về với chốn thôn dã, vui thú điền viên để lánh đời, quên đi thế sự đang xoay vần điên đảo thì Bác Hồ về với vùng sơn cước “thâm sơn cùng cốc” để hoạt động do yêu cầu cần giữ bí mật của cách mạng. Dù có ở vùng núi nhưng vẫn là dấn thân vào xã hội, vào trường hoạt động cách mạng gian khổ. Bác Hồ đâu phải là một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Câu thơ như muốn vượt qua những gì không ổn định để đi đến một thế vững vàng. Bàn đá chông chênh tạo nên một tư thế không vững chãi. Đó là nơi Bác ngồi làm việc. Bàn đá của thiên nhiên. Nhưng cụm từ “dịch sử Đảng” như một lời khẳng định chắc nịch cho sự vững lòng với công việc của mình. Để đến câu thơ cuối là một lời kết thúc vui tươi, hóm hỉnh:
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Bác vẫn tìm ra một nét đặc biệt đằng sau tất cả những thiếu thốn vật chất của cuộc sống đời thường – cũng chính là một phần của cuộc đời cách mạng. Người tìm ra nét “sang” trong những gì giản dị, đơn sơ nhất. Từ “sang” vừa có nghĩa là sang trọng, giàu có vừa có nghĩa diễn tả một phong thái vượt lên trên tất cả những gì tầm thường của vật chất để có một tinh thần lạc quan, tự tại. Câu thơ như một nụ cười ngạo nghễ của một con người đã chiến thắng hoàn cảnh bằng chính tinh thần lạc quan của mình.
Bài thơ như một nhật kí bằng thơ ghi lại cuộc sống của Người nơi núi rừng Pác Bó. Người đọc nhận ra và kính trọng một nhân cách cao đẹp trong một cuộc sống rất đỗi đời thường. Đó chính là phong thái đặc biệt khó quên của Hồ Chủ tịch.