Bức tranh thiên nhiên từ xưa đến nay luôn là nguồn đề tài, cảm hứng của biết bao nhà thơ. Thanh Hải và Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ Việt Nam hai tác phẩm đặc sắc làm phong phú cho nền văn học nước nhà là bài Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải ) và Sang thu (Hữu Thỉnh ). Bài thơ của Thanh Hải thể hiện lòng yêu mùa xuân thiên nhiên tha thiết, còn Hữu Thỉnh thì thể hiện sự cảm nhận tinh tế về những chuyển biến lúc đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.
Mở đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là hình ảnh của mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bức tranh mùa xuân được nhà thơ chọn lọc qua hai hình ảnh “dòng sông xanh “ và “bông hoa tím biếc. Hai màu ‘xanh” và “tím biếc” thật hài hòa, dịu mát và tràn đầy sức sống. Màu tím phải chăng đó là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ quê hương của nhà thơ? Động từ “mọc” đặt ở đầu câu tạo nên phép đảo ngữ nhấn mạnh sức sống bền bỉ của bông hoa giữa bốn bề sông nước. Bức tranh mùa xuân còn có cả âm thanh rộn ràng của tiếng chim chiền chiện.
Tiếng hót trong vắt của chú chim chiền chiện làm xao động cả không gian đem đến cho mùa xuân niềm vui rạo rực. Từ cảm “Ơi”, “chi mà” nghe sao thân thương trìu mến, nhà thơ như ngỡ ngàng thích thú và nhà thơ như trách yêu tiếng chim chiền chiện vì đã làm cho tâm hồn nhà thơ rạo rực trước hình ảnh mùa xuân tươi đẹp.
Tiếng chim đang vang xa bỗng lại gần:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thật tài tình: Từ thính giác sang thị giác rồi sang xúc giác. Tiếng chim như kết tinh thành những giọt sương long lanh sắc màu rơi xuống và nhà thơ đón nhận bằng tất cả các giác quan. Sự chuyển đổi ấy đã thể hiện cảm xúc nhà thơ trước cảnh đất trời thiên nhiên xứ Huế vào mùa xuân.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Ở khổ hai, hình ảnh mùa xuân đất nước được nhà thơ thể hiện qua hai hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”. Tượng trưng cho người với nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước và người nông dân với nhiệm vụ sản xuất xây dựng quê hương. Đó là hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nước ta lúc bấy giờ. “Lộc” là chồi non, cành lá non, “lộc” còn có ý nghĩa tượng trưng cho sự may mắn và tốt đẹp cho niềm tin và chiến thắng. “Lộc” đi theo chân người lính đi đến mọi miền đem lại sự bình yên cho mọi nhà, còn “lộc” của người nông dân là nương mạ xanh rờn hứa hẹn một mùa bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người.
Bốn câu thơ với kết cấu đối xứng và điệp ngữ “tất cả như” đã thể hiện được mọi người cùng chung ý nghĩ và hành động để bảo vệ xây dựng quê hương đất nước. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã thể hiện được không khí khẩn trương hối hả nhộn nhịp vui tươi. Từ mùa xuân thiên nhiên đất nước nhà thơ suy nghĩ về lịch sử dân tộc đầy tự hào:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Cụm từ “bốn ngàn năm” mộc mạc, giản dị nhưng có sức khái quát được bề dày lịch sử của dân tộc. Không tự hào làm sao được khi đất nước có bốn ngàn năm văn hiến. Niềm tự hào ấy ta cũng đã bắt gặp được trong bài “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Từ “vất vả gian lao” thật giàu sức gợi tả tái hiện được hành trình đầy gian khổ, thăng trầm của đất nước. Trong 4000 năm ấy, dân tộc ta không lúc nào ngừng nghỉ tiếng súng gươm để đương đầu với giặc ngoại xâm và chống chọi với thiên nhiên. Hình ảnh so sánh đất nước như “vì sao” thật gợi cảm. “Vì sao” ấy có phải chăng là biểu tượng của lá cờ tổ quốc? Luôn tung bay tự hào trước bạn bè thế giới. Cụm từ “cứ đi lên” như khẳng định không có thể ngăn cản được nước Việt Nam sẽ ngày càng phát triển.
Khát vọng được hòa nhập, dâng hiến cho đời của nhà thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Điệp ngữ “ta làm” có tác dụng nhấn mạnh tấm lòng chân thành tự nguyện của nhà thơ. Ước nguyện của Thanh Hải thật nhỏ bé đơn sơ nhưng lại vô cùng có ích cho đời. Nhà thơ ước nguyện được làm con chim cành hoa để cùng với muôn ngàn tiếng chim, muôn ngàn sắc hoa để góp vào mùa xuân của đất nước làm đẹp thêm cho cuộc đời. Và thật khiêm nhường khi nhà thơ chỉ ước nguyện được làm một nốt trầm trong bản hòa ca chứ không phải là một nốt cao vút nổi trội. Nhà thơ xưng “tôi” ở khổ thơ đầu nhưng đến khổ thơ này nhà thơ xưng “ta”, “ta” ở đây vừa là nhà thơ vừa là để chỉ mọi người. Khát vọng hòa nhập của Thanh Hải thật cao đẹp và cảm động biết bao.
Khổ thơ tiếp theo nhà thơ vẫn thể hiện rõ khát vọng dâng hiến cho đời:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ” thật độc đáo và gợi cảm. Nhà thơ như muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng cuộc đời của mỗi người chúng ta là hữu hạn, chỉ là mùa xuân nho nhỏ phải biết góp vào mùa xuân lớn của đất nước. Và thái độ của nhà thơ thật đáng trân trọng khi chỉ “lặng lẽ dâng cho đời”. Cụm từ “ lặng lẽ’ thể hiện thái độ cống hiến âm thầm, không phải phô trương, không cần mọi người biết đến. Đó là sự cho đi mà không cần đền đáp.
Và cuối cùng là lời ca ngợi quê hương xứ Huế:
“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Ta có cảm giác như nhà thơ vừa làm thơ vừa hát ngân nga những câu thơ của mình. Đó là những lời thủ thỉ tâm tình nồng ấm nghĩa tình quê hương. Kết thúc bài thơ là những âm thanh rộn ràng của “nhịp phách tiền” đất Huế ta có cảm giác nhà thơ đang mỉm cười trước lúc ra. Còn Hữu Thỉnh Mở đầu bài thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa thật sinh động và tinh tế.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
“Bỗng nhận ra hương ổi” thể hiện trạng thái bất ngờ, đột ngột. Nhà thơ đã nhận ra tín hiệu mùa thu đó chính là “hương ổi”, cái mùi hương mộc mạc dân dã của làng quê chứ không phải là hình ảnh “lá vàng, trời xanh” như các nhà thơ xưa vần thường đề cập đến:
“Em không nghe mùa Thu
Thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
(Tiếng thu – Lưu Trọng Lư)
Đưa hình ảnh “hương ổi” vào trong bài thơ đó là sự sáng tạo, mới mẻ của Hữu Thỉnh. Động từ “phả” thật hay, nói diễn tả mùi hương ổi lan tỏa trong không gian như sánh lại. Mùi hương ổi như “phả” vào đất trời, “phả” vào cả hồn người. Nhà thơ không chỉ cảm nhận tín hiệu mùa thu bằng khứu giác mà còn bằng cả xúc giác “gió se” cảm nhận được cái không khí lạnh của “gió se”.
Mùa Thu miền Bắc đã bắt đầu chớm lạnh, đó là đặc trưng của đất trời lúc vào Thu. Ngoài ra nhà thơ còn cảm nhận tín hiệu mùa Thu qua thị giác: “Sương chùng chình qua ngõ”. Sương Thu được nhân hóa “chùng chình qua ngõ”, như một nàng thu áo trắng cố ý đi chầm chậm qua “ngõ”. Từ “ngõ” vừa có nghĩa là cửa ngõ của đường làng, vừa là cửa ngõ của thời gian từ Hạ sang Thu. Tất cả điều đó làm nhà thơ thốt lên: “Hình như Thu đã về”. Từ “hình như” là từ tình thái thể hiện tâm trạng bâng khuâng.
Từ ấy như muốn ám chỉ nhà thơ vừa thầm hỏi vừa thể hiện sự mong đời sự chuyển giao này sao lại đến bất ngờ như vậy. Qua khổ thơ đầu ta có thể thấy được tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ về thời điểm giao mùa. Hữu Thỉnh đã cảm nhận tín hiệu của mùa thu bằng tất cả giác quan nhạy bén của một nghệ sĩ yêu thiên nhiên tha thiết.
Hình ảnh mùa thu được mở rộng theo không gian:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Sự vận động của thời điểm giao mùa được miêu tả cụ thể bằng sự đổi thay của mọi vật. Hình ảnh nhân hóa dòng “sông được lúc dềnh dàng” thật sinh động. Khi sang thu dòng sông có vẻ nhàn hạ thông thả ung dung sau những ngày mùa hạ mệt mỏi vì đã chảy mạnh, chảy xiết trong ba tháng hè. Cho nên sang thu có lẽ là lúc dòng sông được nghỉ ngơi và dòng sông giờ đây thật êm đềm thơ mộng.
Đối lập với dòng sông hiền hòa ấy thì những chú “chim bắt đầu vội vã”. Có phải chăng chúng vội vã vì cảm nhận được tuyết trời lành lạnh của mùa thu và để chuẩn bị tránh rét khi đông về. Phải tinh tế lắm thì Hữu Thỉnh mới cảm nhận được bầy chim chỉ mới “bắt đầu vội vã” chứ không phải là đang vội vã. Bức tranh mùa thu có thể nói thật độc đáo và đặc sắc ở hai câu kế:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Đám mây mùa hạ nhưng phân nữa đã là mùa thu hay nói cách khác đám mây mùa thu vẫn còn lưu luyến nắng hạ chưa muốn chia tay với mùa hạ. Động từ “vắt” thật độc đáo, tác giả không dùng từ “lơ lửng” hay “bồng bềnh” mà lại dùng từ “vắt” rất giàu sức gợi đám mây như một tấm vải lụa mềm mại. “ Vắt” ngang bầu trời phân chia phân chia rạch ròi hai mùa hạ-thu. Hình ảnh được nhà thơ miêu tả theo không gian từ thấp lên cao từ gần ra xa hướng vào không gian bát ngát. Mùa thu đến thật cả rồi, đến khắp mọi nơi trong vạn vật và cả trong lòng nhà thơ.
Ở khổ thơ cuối là những cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Ở khổ thơ này vẻ đẹp của mùa thu không còn được miêu tả trực tiếp như ở hai khổ thơ đầu mà được khẳng định bằng những suy ngẫm của nhà thơ. Những hiện tiện thiên nhiên như nắng, mưa, sấm chớp như mùa hạ nhưng khi sang mùa thu thì mức độ đã khác rồi. Nắng mưa khi sang thu khác hẳn với nắng mưa khi ở mùa hạ, nắng vẫn còn nhưng không còn là cái nắng gay gắt và chói chang của mùa hạ mà là cái nắng dịu đi và nhạt đi. Còn mưa cũng ít đi nhất là những trận mưa rào ào ạt, vì thế cũng không còn những tiếng sấm trên hàng cây đứng tuổi. Những cụm từ “vẫn còn”, “đã với dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay về hiện tượng sự vật lúc sang thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Hai câu thơ vừa tả thực hiện tượng thiên nhiên lúc sang thu còn mang tính ẩn dụ như “sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi”tượng trưng cho những con người từng trải. Cả câu muốn nói những con người từng trải luôn chín chắn và không chùn bước trước những phong ba bão tố cuộc đời. Đó là những con người luôn bình tĩnh trước những tác động bất thường của ngoại cảnh của cuộc sống đầy thử thách.Cùng với tư tưởng ấy nhà thơ Phan Chu Trinh cũng từng viết:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.”
Khổ thơ cuối bài thơ không chỉ tả cảnh sang thu mà còn chất chứa những suy nghiệm của bài thơ về con người và cuộc đời.
Cả hai bài thơ được sáng tác vào hoàn cảnh giống nhau, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” và bài “Sang thu” đều thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành từ trong kháng chiến chống Mỹ. Những vần thơ của Thanh Hải chần thật, bình dị, đôn hậu trong khi sáng tác của Hữu Thỉnh tinh tế, triết lí. Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) và Sang thu (Hữu Thỉnh) là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách của hai ông.
Hai đoạn trích thuộc hai tác phẩm trên tuy khắc họa những bức tranh thiên nhiên khác nhau nhưng đểu cùng chung nguồn cảm hứng và tình yêu dào dạt trước thiên nhiên quê hương. Cả hai bài thơ nói chung đã góp vào văn học những tác phẩm đặc sắc làm phong phú cho nền văn học nước nhà, tuy vậy Thanh Hải và Hữu Thỉnh vẫn giữ riêng phong cách sáng tác của mỗi nhà thơ.
Hai bài thơ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm hứng. Cùng với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim tha thiết yêu thiên nhiên trải ra trên từng nét chữ, Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã tặng cho người đọc cái rộn ràng của sắc xuân cùng với một chút lắng đọng thật êm khi thu đến. Nếu Thanh Hải cho ta cảm nhận cái rộn ràng, say mê cống hiến cùng niềm tin yêu Tổ quốc, thì Hữu Thỉnh lại mang đến cái dân dã, mộc mạc, đẩy rung cảm và thân quen. Dẫu hai ngòi bút nghệ thuật khắc họa hai đường nét đặc sắc khác nhau nhưng đâu đó ta vẫn thấy ngân vang lên yêu thiên nhiên nồng nàn say đắm, tầm hồn thi sĩ luôn lạc quan và say sưa trong niềm cảm hứng bất tận với cảnh sắc quê hương. Điều đó phần nào đã được gợi tả thật thành công qua hai khổ thơ hấp dẫn ở trên.