Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ sau

Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ

ta đi ta nhớ những ngày.... chày đêm nện cối đều đều suối xã từ tấm lòng của tố hữu Việt Bắc a chị có suy nghĩ gì về tình yêu quê hương thế hệ trẻ ngày nay

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
2.491
2
1
Nguyễn Anh Minh
16/06/2021 07:58:16
+5đ tặng
  • Mở bài:

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam hiện đại. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi ( trích thơ). Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền thống, Vì thế, ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn qua hai bài thơ của ông là “Từ ấy” và “Việt Bắc”.

  • Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ:

+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc(Thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”

+ Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ

2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về đoạn thơ

* Về nội dung:

Nêu ý chính toàn đoạn thơ: Khẳng định tấm lòng trước sau như một, nỗi nhớ sâu sắc trào dâng, tình cảm ân tình giữa kẻ đi với người ở. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện ra sâu sắc, chân thực.

  • Hai dòng đầu:

Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

+ Từ “đây – đó” chỉ vị trí liền kề.

+ Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, chỉ những gian khổ và niềm vui Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người Cách Mạng, cùng chịu gian khổ, chia sẻ niềm vui.

  • Hai câu tiếp:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng.

+ Hình ảnh “củ sắn lùi, bát cơm, chăn sui” đi với những từ ngữ “chia, sẻ, cùng” cho thấy sự thiếu thốn, khổ cực của cuộc sống kháng chiến, đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia

+ Tượng trưng cho một mối tình đậm đà giai cấp Hai câu thơ chứa đựng bao tình nghĩa sâu đậm. Tất cả những khoảnh khắc ấy sáng mãi trong lòng người ra đi, tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn không thể xóa nhòa.

  • Hai câu thơ tiếp theo:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

+ “Người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” gợi liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến.

+ Là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến.

  • Sáu câu cuối:

Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mỏ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa

+ Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên: Nhớ “lớp học i tờ” xóa mù chữ: Cách mạng đem đến cho nhân dân không chỉ tự do mà còn đem đến ánh sáng của tri thức. Nhớ nhịp sống những “ngày tháng cơ quan”, “gian nan vẫn ca vang núi đèo” gợi tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ chiến sĩ bất chấp khó khăn. Nhớ những thanh âm đặc trưng của miền núi: tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nên cối, tiếng suối xa,….Đó là những hồi ức về cuộc sống bình dị ấm áp mà vui tươi nơi núi rừng Việt Bắc.

+ Điệp cấu trúc “Nhớ sao” 3 lần cùng phép đối lập và cảm hứng lãng mạn Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người kháng chiến.

* Về nghệ thuật:

+ Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình, trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiến nhiên, núi rừng Việt Bắc, cuộc sống ở Việt Bắc.

+ Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết

+ Điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ sao….nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm.

+ Hình ảnh chân thực, bình dị, giàu sức gợi cảm.

3. Liên hệ với bài thơ Từ ấy để bình luận ngắn ý kiến sau: Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc.

Giải thích: cái tôi trữ tình: là sự bày tỏ cảm xúc riêng của nhà thơ trước các vấn đề của xã hội, trước sự phát triển của lịch sử dân tộc; Tố Hữu quả đúng là nhà thơ của lí tưởng cộng sản vì đời sống cách mạng luôn chi phối toàn diện và sâu sắc sự nghiệp sáng tác thơ của ông.

Phân tích, chứng minh, bình luận: Quá trình sáng tác của Tố Hữu song hành với hành trình cách mạng: các chặng đường thơ tương ứng với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

  • Bài thơ “Từ ấy”:

+ “Từ ấy” trích trong tập thơ cùng tên, là tập thơ đầu tay của Tố Hữu có vị trí đặc biệt trên con đường thơ của ông.

+ Bài thơ chứa đựng một cá tính mạnh mẽ, một khí chất say sưa, một quan niệm cá nhân cởi mở giữa những người đồng chí đã làm cho cái tôi nhà thơ được bộc lộ tự do, không hề bị trói buộc bởi bất kỳ công thức, chuẩn mực nào, tạo nên những vẫn thơ đẹp, xúc động, đầy men say, bay bổng bậc nhất trang thơ ca cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.

+ Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của chàng thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng.

+ Qua “Từ ấy”, Tố Hữu đã thể hiện một cái tôi cá nhân cảm tính, ở phương diện tích cực, mạnh mẽ một mặt mà thơ mới lãng mạn chưa hề biết đến.

  • Đoạn trích Viết Bắc nói riêng, bài thơ nói chung:

+ Cái tôi đã hoà chung với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Mình là ta – Ta là mình – Ta với mình như hoà quyện vào nhau, đan xen nhau. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của những con người kháng chiến, nói về mình về người để bày tỏ những ân tình, lòng biết ơn sâu sắc đối với những ân tình

+ Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích nói riêng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong chặng đường thơ này là cái tôi nhập vai nhằm làm nổi bật, tôn vinh lên hình tượng những con người kháng chiến, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình, niềm cảm phục trước sự hy sinh cao cả của người dân kháng chiến.

+ Khẳng định tính đúng đắn của nhận định “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc”.

  • Kết bài:

– Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ.

– Cảm nghĩ của bản thân về cái tôi trong thơ Tố Hữu qua 2 bài thơ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Tâm Như
16/06/2021 10:26:55
+4đ tặng

. MỞ BÀI
II. THÂN BÀI
1. Khái quát

      Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).

      Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.

     Đoạn thơ trích dẫn trên là lời của người cán bộ nói với nhân dân Việt Bắc. Mỗi lời thơ viết ra là lời của ruột gan, của sâu thẳm nghĩa tình. Đó là những kỷ niệm kháng chiến gợi lên những ký ức khó phai mờ về Việt Bắc về những năm tháng đã qua. Qua đó khẳng định, Việt Bắc là chiến khu an toàn, nhân dân ân tình, thủy chung, hết lòng với cách mạng và kháng chiến.

2. Nội dung
2.1. Bốn dòng thơ đầu là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại. Giọng thơ tha thiết, chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của ta và mình.

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

         Nếu người ở lại hỏi “mình đi có nhớ những ngày” thì người ra đi đáp lại: “Ta đi ta nhớ những ngày”. “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười lăm năm ta đã cùng mình gánh vác giang sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng nhau đi qua bao biến cố; mười lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi. Bốn chữ “mình đây, ta đó” gợi lên mối quan hệ gắn bó khăng khít. Chữ “đây – đó” chỉ hai con người liền kề, gần gũi, cùng nhau chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh.
         Thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi. “Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư vị, bốn giai âm của cuộc sống. “Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm trong cuộc đời mà ta và mình đã cùng nhau trải qua. “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất mát, hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Ý thơ thể hiện ý nghĩa sâu xa: ta đã cùng mình trải qua những thăng trầm, trải qua bao gian khó, bao buồn vui, ngọt bùi cay đắng, cùng nhau đi qua vinh nhục… nên đã thấu hiểu, đồng cảm với nhau. Từ đây ta và mình đã mãi mãi trở thành tri kỷ.
        Nghĩa tình ấy còn được Tố Hữu thể hiện thật sâu sắc qua ý thơ:

“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

       Các hình ảnh: “chia củ sắn”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” kết hợp ba động từ “chia-sẻ-đắp” đã cụ thể hoá tình đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc, chân thành giữa cách mạng và nhân dân. Đó cũng là những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và cách mạng. Nhớ những ngày đói kém, ta cùng mình chia bùi sẻ ngọt: đói ăn ta có củ sắn chia đôi, bát cơm sẻ nửa; nhớ mùa đông lạnh giá, ta đã cùng mình đắp chung một mảnh chăn sui. Thế mà cùng nhau đi qua bao gian khó. Đó là tình cảm thuỷ chung, gắn bó được chưng cất qua thời gian dài mà ta cùng mình chung lưng đấu cật, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Tình cảm ấy là muôn đời không thời gian nào có thể làm cho phai mờ.

2.2. Nỗi nhớ trải dài qua khắp núi rừng Việt Bắc rộng lớn, để rồi quy tụ về những kỷ niệm:

Trước hết là nhớ người mẹ nuôi Việt Bắc đã hết lòng vì cán bộ chiến sĩ:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

      Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên Việt Bắc vô cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Các động từ “địu con”, “bẻ từng” cũng gợi lên sự tần tảo, cần cù lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động. Hai chữ “bẻ từng” gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm từng hạt bắp làm lương thực nuôi quân. Đó là những ân tình không thể nào quên trong ký ức của người về. Thầy Phan Danh Hiếu
2.3. Đoạn thơ sau đó sử dụng phép liệt kê và điệp ngữ “nhớ sao” để làm sống dậy những kỷ niệm, những sinh hoạt ở Việt Bắc:
      Điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “nhớ sao” khiến cho nỗi nhớ như mênh mang, như trải dài vô tận. Đó là kỷ niệm với lớp học bình dân học vụ – nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân vùng cao (lớp học i tờ); nhớ những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng đầy náo nức, tưng bừng:

“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”

Nhớ những ngày tháng hoạt động cách mạng:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.

       Đó là ngày tháng hoạt động cách mạng đầy gian nan, vất vả nhưng tinh thần thì luôn vui vẻ. Câu thơ “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất gian khổ và tinh thần luôn lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ “ca vang núi đèo”.
        Đến cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi khiến cho mỗi chiều, mỗi đêm khuya càng thêm thao thức:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.

           Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ rừng chiều gợi hình ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng, tiếng mõ vang vọng, rộn ràng cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng, tiếng chày giã gạo từ suối xa vẫn đều đều vỗ về trong giấc ngủ.
3. Nhận xét, đánh giá nội dung và nghệ thuật.
– Nội dung: đoạn thơ vừa phân tích trên đây là đoạn thơ tiêu biểu cho nghĩa tình cao đẹp giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Đoạn thơ đã khơi dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền chặt với bao vất vả gian lao thiếu thốn nhưng luôn đầy lạc quan, tin yêu. Qua đó người về cũng tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn.
– Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau đi làm nghĩa vụ. Phong cách thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung, đoạn thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Về hình thức nghệ thuật, thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ, liệt kê…). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc.
III. KẾT BÀI
Tự làm

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×