Một trong những tác phẩm chương hồi nổi bật của văn học Việt Nam là Hoàng Lê nhất thống trí do Ngô gia văn phái biên soạn. Tác phẩm đã tái hiện lịch sử của một thời loạn lạc và nêu bật chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Trong đó, hồi thứ mười bốn của tác phẩm đã cho ta thấy niềm tự hào dân tộc gắn với sự kiện đại phá quân Thanh cùng số phận bi thảm của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Vua Quang Trung hiện lên trong tác phẩm là vị vua văn võ toàn tài, có công lao lớn đánh đuổi quân Thanh cũng như sau này là xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân. Vẻ đẹp của người anh hùng áo vải được tái hiện thông qua chiến công lừng lẫy đại phá quân Thanh và minh chứng cho nhiều nét phẩm chất nổi bật ở vua. Nhất là thông qua những lời phủ dụ, chân dung Quang Trung hiện lên là một vị vua yêu nước thương dân, có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa cùng những hành động rất quyết đoán.
Vua Quang Trung khẳng định chủ quyền của dân tộc ngay trong những lời đầu tiên của lời phủ dụ:
“Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ được vua Quang Trung đưa ra cũng mang theo âm hưởng của một Nam quốc sơn hà và của một Bình ngô đại cáo.
Cũng từ đó mà ông đã nêu ra âm mưu của kẻ thù nhằm thức tỉnh và làm cháy lên ngọn lửa chiến đấu sôi sục trong quân sĩ. “Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, “Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa”. Có thể nói, sự cụ thể trong từng lời của vua Quang Trung đã giúp không chỉ những tướng sĩ mà chính người đọc cũng hiểu được lòng căm phẫn dành cho kẻ thù ngoại bang.
Những lời gơi nhắc của vua về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã trở thành sự đánh thức và cổ vũ tinh thần cao độ đối với mỗi người tướng sĩ. “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Những tấm gương lịch sử hào hùng trong chiến đấu với kẻ thù phương Bắc làm sống dậy khí thế hào hùng của dân tộc. Quá khứ vẻ vang ấy càng nhắc nhở mỗi người tướng sĩ về trách nhiệm phải không ngừng bồi dưỡng, rèn luyện để chiến đấu với kẻ thù.
Cũng từ đó mà nhà vua có cơ hội để bày tỏ lòng tin lớn lao vào binh lính, kêu gọi họ dốc lòng, dốc sức vì sự nghiệp đánh đuổi kẻ thù. “Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”. Lời hiệu triệu toàn dân đứng lên đánh giặc giữ nước của vua Quang Trung thật sự đã trở thành những lời kêu gọi mang hiệu ứng cao để thúc tỉnh tinh thần, ý chí trong mỗi quân sĩ và giúp họ có được ý thức, tinh thần đấu tranh mạnh mẽ.
Quyết tâm sắt đá đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh cùng lời tuyên bố kỷ luật nghiêm minh của quân đội với kẻ ăn ở hai lòng chính là ý thức tự cường cao độ trong mỗi người tướng lĩnh của ta.
“Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”. Vua không chỉ là người hiểu binh, am tường việc binh mà còn luôn thấu đáo để quân lính có được tầm nhìn đúng đắn, tránh sai phạm không đáng vì cùng là nhân dân chung dòng máu.
Lời phủ dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ tại cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An với lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, giọng điệu hào hùng đã truyền vào tinh thần, khí thế đến với mỗi bạn đọc. Nó không chỉ là lời kích lòng quân, vững ý quân mà còn là ngòi bút hào khí của dân tộc ta trước âm mưu của kẻ thù phuowgn Bắc.
Lời phủ dụ với những biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã giúp làm sáng rõ tinh thần yêu nước trong người lãnh đạo- vua Quang Trung. Ở đó ta không chỉ bắt gặp một khí thế, tinh thần mà còn hiểu hơn lòng yêu nước nồng nàn trong dòng chảy lịch sử. Nó là sức mạnh thần kì giúp quân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù ngoại xâm.