- Mùa thu 1953, sau khi có trong tay bản kế hoạch Navarre do tình báo Trung Quốc thu được và Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc trao cho, ta nắm được đầy đủ nội dung của nó mà mấu chốt là ý đồ tập trung và phát triển nhanh lực lượng cơ động chiến lược để giành quyền chủ động.
Navarre tập trung một lực lượng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồm 44 tiểu đoàn cơ động trong tổng số 112 tiểu đoàn với ý đồ thâm độc, từng được đánh giá là nước cờ rất cao tay:
- Vừa sẵn sàng đối phó được với cuộc tiến công lớn của chủ lực ta mà y phán đoán là có nhiều khả năng xảy ra ở đồng bằng.
- Vừa có lực lượng cơ động để mở chiến dịch Adlante, đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5 và đối phó với chiến tranh du kích đang phát triển mạnh ở các vùng chúng tạm chiếm.
- Vừa uy hiếp được các vùng tự do rộng lớn của ta ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, Trung Du và Việt Bắc, buộc chủ lực ta phải bị động đề phòng, không dám tiến quân đi hướng khác.
Mùa Thu 1953, trong cuộc Hội nghị ở bản Tỉn Keo (Việt Bắc), sau khi nghe Ðại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo kế hoạch Navarre, Bác Hồ đang ngồi trầm ngâm, đặt tay trên bàn, bỗng giơ tay lên và nắm lại. Bác nói:
"Ðịch tập trung quân cơ động để tạo thành sức mạnh! Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán thì sức mạnh đó không còn!".
Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón tay chỉ về một hướng.
Theo tư tưởng chỉ đạo của Bác, chấp hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ IV tháng 1-1953 về việc chọn hướng tiến công vào những nơi địch tương đối yếu và sơ hở nhưng vì quan trọng nên địch không thể nào bỏ được, chủ trương tác chiến của Tổng Quân ủy được Thường vụ Trung ương Ðảng thông qua là:
"Dùng một bộ phận quân chủ lực, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải phân tán quân cơ động ra đối phó. Khối chủ lực lớn còn lại bí mật giấu quân ở Trung du và cửa ngõ Việt Bắc, sẵn sàng đánh địch tiến công vào hậu phương ta hoặc cơ động đi hướng khác khi tình hình đòi hỏi. Bằng cách đó, ta buộc quân xâm lược phải lún sâu vào mâu thuẫn không thể nào gỡ nổi giữa tập trung và phân tán binh lực, để tạo nên thế trận mới, thời cơ mới có lợi cho ta. Trong quá trình đó, theo dõi sát sự phát triển của tình hình để khi thời cơ xuất hiện thì nhanh chóng tập trung chủ lực, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, làm chuyển biến cục diện kháng chiến".
Ta chủ trương lấy Tây Bắc làm hướng chính.
Cần nói rõ thêm là từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung ương Ðảng Cộng sản Ðông Dương đã sớm nhận rõ tầm quan trọng chiến lược của miền Tây Tổ quốc theo quan điểm Ðông Dương là một chiến trường. Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam (tên gọi Bộ tổng tư lệnh thời bấy giờ) đã từng tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền, các đội "Xung phong Tây Tiến", theo kinh nghiệm của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày trước, tiến vào miền Tây để giác ngộ đồng bào các dân tộc, gây dựng và phát triển cơ sở kháng chiến. Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đề ngày 1 tháng 2 năm 1947 "gửi các chiến sĩ bộ đội Tây Tiến" có những đoạn như sau:
"Hôm nay, các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ tiến về hướng Tây, theo gót một số đã sớm tiến trên các mạn Ðiện Biên Phủ, Sơn La, Mộc Châu, Sầm Nưa hay miền lân cận, Xiêng Khoảng, Sê Pôn...".
"Miền Việt - Tây đối với nước ta có một vị trí chiến lược rất quan trọng. Hùng cứ được vùng đó, không những quân địch ở vào cái thế "cư cao lâm hạ"(1), có thể uy hiếp hậu phương chúng ta, mà chúng lại mong thực hiện cái âm mưu ác độc "dĩ Việt, chế Việt"(2), chia rẽ các anh em thiểu số, lập bộ đội người Việt dân tộc thiểu số để đánh lại chúng ta".
..."Do những nhận xét trên, các đồng chí thấy rõ nhiệm vụ bảo vệ biên cương phía Tây của chúng ta là quan trọng đến nhường nào!".
Từ năm 1948 đến 1951, đi đôi với việc đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp, tổ chức thêm Ðoàn vũ trang công tác miền Tây và Ban xung phong Lào Bắc, ta đã lần lượt mở các chiến dịch nhỏ ở Tây Bắc, như Yên Bình xã (1948), Lao Hà, Chợ Bờ - Hòa Bình, sông Thao (1949), Phố Lu - Nghĩa Ðô (1950), Lý Thường Kiệt (Nghĩa Ðô - Yên Bái) năm 1951, v.v... tạo tiền đề và cơ sở để mở chiến dịch lớn giải phóng Tây Bắc vào Thu Ðông 1952 và chiến dịch Thượng Lào mùa Xuân 1953.
Cũng cần nói rõ là sau ba chiến dịch Trung Du, Ðường số 18, Hà Nam Ninh trong 6 tháng đầu năm 1951, ta đã thấy không thể đánh ngay vào chỗ mạnh của địch ở đồng bằng. Sau thắng lợi của ba chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, bước vào Thu Ðông năm 1953, không một ai trong cán bộ cao cấp của ta có tư tưởng muốn về đánh lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, kể cả sau khi Navarre rút bỏ tập đoàn cứ điểm Nà Sản.
Thực hiện kế hoạch chiến lược Ðông Xuân 1953-1954, trước khi mở cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, bộ đội ta đã tiêu diệt quân địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc, chủ lực ta phối hợp với quân giải phóng Pathét Lào tiến công vào Trung Lào và Hạ Lào, phát triển xuống vùng đông bắc Cam-pu-chia, bắt liên lạc với các tiểu đoàn chủ lực của miền Ðông Nam Bộ. Chủ lực Liên khu 5 tiến công giải phóng vùng Bắc Tây Nguyên, nối liền với vùng Cao nguyên Bôlôven vừa được giải phóng. Chiến trường Ðông Dương của địch bị chia cắt ra nhiều mảnh. Hạ tuần tháng 1-1951, sau khi tạm ngừng cuộc tiến công vào Ðiện Biên Phủ, một đơn vị chủ lực ta đã bất ngờ mở cuộc tiến công sang Thượng Lào, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, uy hiếp Luang Prabang.
Năm đòn tiến công chiến lược nói trên đã làm cho khối cơ động chiến lược của Navarre bị phân tán trên nhiều hướng:
Ðiện Biên Phủ: từ 6 tiểu đoàn tăng lên 12 rồi 17 tiểu đoàn.
Xê Nô: 10 tiểu đoàn.
Pắc Xế: 4 tiểu đoàn.
Plây Cu: 11 tiểu đoàn.
An Khê: 3 tiểu đoàn.
Luang Prabang: 5 tiểu đoàn.
Mường Xài: 3 tiểu đoàn.
Ðồng bằng Bắc Bộ chỉ còn lại 20 tiểu đoàn cơ động, lại phải bị động đối phó với các cuộc tiến công của Ðại đoàn 320 và các trung đoàn chủ lực Liên khu 3. Ðịch đã bị thiệt hại lớn.
Ðể phối hợp với các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, chiến tranh du kích đã được đẩy mạnh ở khắp các vùng địch chiếm, từ đồng bằng Bắc Bộ đến Bình Trị Thiên, Cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ và một số vùng có cơ sở kháng chiến ở Cam-pu-chia và Lào.
Rõ ràng sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Thường vụ Trung ương Ðảng và Tổng Quân ủy đã điều động được lực lượng của địch đến những chiến trường có lợi cho ta để tiêu diệt chúng. Kế hoạch Navarre bị đảo lộn và bắt đầu phá sản.
(II)
- Ðông Xuân 1953-1954, Navarre chủ trương tránh giao chiến với chủ lực ta trên chiến trường miền bắc. Y ra sức giành ưu thế về lực lượng cơ động chiến lược để thực hiện một trận "tổng giao chiến" vào mùa khô năm sau, trên chiến trường do y lựa chọn.
Bằng cuộc tiến quân lên Tây Bắc, ta đã buộc địch phải vội vã ném những đơn vị tinh nhuệ nhất của chúng xuống Ðiện Biên Phủ, xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh để rồi bị giam chân và cô lập trong một lòng chảo trên chiến trường rừng núi, địa hình và thời tiết đều không thuận lợi. Như vậy là ta đã chủ động tạo ra thời cơ và mau lẹ nắm lấy thời cơ, buộc chủ lực địch phải chấp nhận quyết chiến sớm hơn một năm so với kế hoạch ban đầu, trên một chiến trường bất lợi cho chúng.
Tập đoàn cứ điểm là hình thức phòng ngự mới của địch để đối phó với sự lớn mạnh của quân đội ta. Trước đây, hình thức chiếm đóng và tác chiến của địch chủ yếu là "cứ điểm nhỏ kết hợp với đội ứng chiến nhỏ". Khi bộ đội ta đã đủ sức tiêu diệt cứ điểm nhỏ và viện binh nhỏ thì địch lại đối phó bằng cách xây dựng cứ điểm lớn rồi cụm cứ điểm, kết hợp với các đội ứng chiến lớn. Từ sau chiến dịch Biên giới Thu Ðông 1950, với việc cụm cứ điểm Ðông Khê và 2 binh đoàn Le Page, Charton bị tiêu diệt, thì hình thức phòng ngự này trở nên lỗi thời. Trước các cuộc tiến công lớn của chủ lực ta, địch chỉ còn hai cách đối phó: hoặc rút quân để bảo toàn lực lượng, hoặc co cụm theo kiểu "con nhím" rồi tăng thêm binh lực, tổ chức phòng ngự theo hình thức tập đoàn cứ điểm. Hình thức này đã lần lượt xuất hiện trong các chiến dịch Hòa Bình (1951), Nà Sản (1952) và Thượng Lào (1953).
Trong những năm 1951-1953, ta chủ trương kiềm giữ địch ở tập đoàn cứ điểm, tạm thời tránh chỗ mạnh, chọn những hướng địch sơ hở và yếu hơn để tiến công. Chủ trương đó đã đưa lại thắng lợi lớn trong các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và trong thời kỳ đầu chiến cuộc Ðông Xuân 1953-1954.
Tuy nhiên, để đưa cuộc kháng chiến tiếp tục tiến lên, quân đội ta không thể dừng lại ở trình độ đó. Từ khi hình thái phòng ngự mới của địch xuất hiện, ta đã dày công nghiên cứu, có sự chuẩn bị về vũ khí, trang bị, chiến thuật cũng như tinh thần chiến đấu cho bộ đội để có thể đánh được tập đoàn cứ điểm.
Ðiện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm rất mạnh: Ðó là một mặt. Mặt khác nó lại là một vị trí cô lập, xa căn cứ hậu phương của địch. Mọi sự tăng viện, tiếp tế đều dựa vào đường hàng không, nếu bị đối phương triệt phá thì khó duy trì khả năng chiến đấu. Thời tiết và địa hình rừng núi hạn chế việc phát huy ưu thế của địch về không quân, pháo binh và xe tăng, nhưng lại thích hợp với sở trường tác chiến của bộ binh ta. Lực lượng ta là những đơn vị chủ lực tinh nhuệ, có tinh thần chiến đấu cao, có sự chuẩn bị về nhiều mặt, đã trải qua nghiên cứu và huấn luyện về cách đánh tập đoàn cứ điểm với sự giúp đỡ của Ðoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Ta lại có một hậu phương rộng lớn với khí thế cách mạng sôi nổi qua cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất. Việc chi viện chiến trường có những khó khăn rất lớn, nhưng không phải là không thể vượt qua.
Sự phân tích khách quan toàn diện nói trên là cơ sở khoa học để Thường vụ Trung ương Ðảng hạ quyết tâm quyết chiến ở Ðiện Biên Phủ. Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch đã chứng minh quyết tâm chiến lược nói trên là hoàn toàn đúng đắn.
(III)
- Hạ quyết tâm tiêu diệt địch ở Ðiện Biên Phủ, nhưng tiêu diệt bằng cách nào? "Ðánh nhanh, thắng nhanh" hay là "đánh chắc, tiến chắc"? Ðó là vấn đề phương châm chỉ đạo chiến dịch.
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ. Sau khi bàn bạc và nhất trí với Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, Tổng Quân ủy đã dự kiến chiến dịch Ðiện Biên Phủ sẽ diễn ra ước độ 45 ngày, không kể thời gian tập trung bộ đội và làm công tác chuẩn bị. Trận đánh sẽ bắt đầu khoảng trung tuần tháng 2 năm 1954.
Khi tôi tháp tùng Ðại tướng Tổng Tư lệnh cùng Trưởng đoàn cố vấn đến sở chỉ huy đầu tiên ở hang Thẩm Púa vào chiều 12-1-1954 thì được biết bộ phận đi trước để chuẩn bị chiến trường do
Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái phụ trách, có sự góp ý của Phó đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Mai Gia Sinh, đã đề nghị tranh thủ đánh sớm đánh nhanh khi địch còn đứng chân chưa vững. Sau này mới được biết Ðại tướng Võ Nguyên Giáp không tán thành phương án đó, nhưng vì đa số các đồng chí trong Ðảng ủy mặt trận và các cố vấn Trung Quốc đều đồng tình, nên Ðại tướng tạm thời chấp nhận để kịp họp Hội nghị Cán bộ và khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị.
Tôi tham dự hội nghị cán bộ ngày 14-1-1954 ở hang Thẩm Púa. Cách đánh chiến dịch được phổ biến là: Dùng toàn bộ lựu pháo 105 ly, súng cối 120 ly, sơn pháo 75 ly, mở cuộc tập kích bất ngờ bằng hỏa lực vào trận địa pháo binh địch, sân bay và sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm, khiến địch bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Tiếp đó, các đơn vị bộ binh cùng một lúc từ nhiều hướng đánh vào các trung tâm đề kháng của địch, hướng chính thọc sâu vào sở chỉ huy, làm cho địch bị rối loạn, rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tiêu diệt toàn bộ quân địch trong 3 đêm 2 ngày chiến đấu.
Sau 8 năm kháng chiến, đây là chiến dịch đầu tiên có lựu pháo và pháo cao xạ của ta xuất trận, bộ đội còn sung sức, quyết tâm chiến đấu rất cao, lực lượng địch chưa nhiều, công sự chưa vững chắc, bố phòng còn sơ hở nên mọi người đều biểu thị tin tưởng, không một ai có ý kiến khác.
Sau Hội nghị, cán bộ các đơn vị về khẩn trương chuẩn bị để có thể nổ súng sớm vào chiều 20-1-1954, mà quan trọng nhất là việc dùng sức người kéo pháo từ vị trí tập kết ở khu vực Nà Nham (Km 69-72) ở Ðông Bắc Ðiện Biên Phủ đến các trận địa ở phía Bắc và Tây Bắc. Việc kéo pháo bằng sức người gặp khó khăn quá mức dự kiến. Ðến ngày 19-1-1954 phần lớn pháo vẫn chưa vào tới trận địa. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn ngày nổ súng đến 25-1.
Ngày 24-1-1954, có tin một chiến sĩ của ta bị địch bắt. Sau đó, trinh sát kỹ thuật báo cáo là qua các điện mật của địch mà ta giải mã được, chúng đã biết được ngày giờ nổ súng của ta. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định lùi giờ G thêm 24 tiếng. (Sau này, qua tài liệu phương Tây ta mới biết địch nắm được giờ G của ta là do giải mã được một bức điện mật của cơ quan cung cấp tiền phương).
Trưa 26-1-1954, tôi được Thiếu tướng Hoàng Văn Thái cho biết: Sau khi trao đổi ý kiến với Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã triệu tập hội nghị Ðảng ủy để đề nghị thay đổi phương châm chiến dịch. Trải qua thảo luận, Ðảng ủy đã đi đến nhất trí là ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi phương châm và cách đánh. Phải ra lệnh hoãn ngay cuộc tiến công dự định vào chiều hôm đó, kéo pháo ra, lui quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc tiến chắc. Riêng đại đoàn 308 phải rời ngay Ðiện Biên Phủ để tiến quân thần tốc sang Thượng Lào. Tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu cách đánh chiến dịch một cách cụ thể để báo cáo với Bộ Chỉ huy chiến dịch.
56 ngày đêm chiến đấu quyết liệt ở Ðiện Biên Phủ đã chứng minh việc thay đổi phương châm chiến dịch chỉ 6 giờ trước khi nổ súng là một quyết định sáng suốt, quả cảm, kịp thời, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chiến dịch.
Là Cục trưởng Cục Tác chiến, đáng ra chúng tôi phải sớm nhận ra khả năng không chắc thắng của phương án đánh nhanh thắng nhanh, nhất là khi địch đã tăng quân và củng cố công sự, nhưng đã không làm được điều đó. Với sự nhạy cảm sắc bén và quyết tâm cao, Ðại tướng Tổng Tư lệnh đã dạy cho chúng tôi một bài học vô cùng quý báu.
(IV)
Ðể thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chắc", qua nghiên cứu và trao đổi ý kiến với các đồng chí cố vấn, ta đã tìm ra cách đánh thích hợp:
Ðó là vây hãm toàn bộ tập đoàn cứ điểm và tập trung binh lực hỏa lực ưu thế, lần lượt tiến công tiêu diệt từng trung tâm đề kháng để bảo đảm chắc thắng trong từng trận. Trong quá trình đó, ta từng bước thắt chặt vòng vây, triệt đường tiếp viện và tiếp tế của địch cả trên bộ và trên không, làm cho lực lượng của địch ngày càng tổn thất tiêu hao, khó khăn ngày càng chồng chất, tinh thần chiến đấu ngày càng sa sút để cuối cùng tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm.
Cách đánh đó hạn chế được chỗ mạnh của địch về không quân, pháo binh và xe tăng, khoét sâu được chỗ yếu của chúng khi phải chiến đấu cô lập trên chiến trường rừng núi. Ðánh như vậy phù hợp với sở trường tác chiến và trình độ của bộ đội ta. Ta hoàn toàn chủ động trong việc chọn mục tiêu và thời điểm tiến công, chắc thắng thì đánh, chưa chắc thắng thì chưa đánh theo tư tưởng của Hồ Chủ tịch.
Ðể có thể vây hãm dài ngày và lần lượt tiến công từng bộ phận địch, theo kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do các cố vấn quân sự Trung Quốc trực tiếp giới thiệu, ta đã xây dựng thành công hệ thống trận địa tiến công và bao vây chiến dịch.
Trong các chiến dịch trước, thông thường các trận chiến đấu đều phải tiến hành vào ban đêm và chỉ có thể kéo dài 3 đến 5 tiếng đồng hồ mới kịp lui quân trước khi trời sáng. Ta chỉ có khả năng tiêu diệt từng tiểu đoàn địch trong công sự vững chắc. Làm thế nào có thể chiến đấu cả đêm lẫn ngày và trên mọi địa hình, nhằm tiêu diệt những lực lượng lớn hơn của địch là vấn đề lớn đang được đặt ra. Sự phát triển công sự chiến đấu thành một hệ thống trận địa tiến công và bao vây trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã giải quyết thành công vấn đề quan trọng ấy. Với hàng trăm kilômét giao thông hào, hàng vạn công sự cho người và hỏa lực, xen kẽ là các hầm ngủ, hầm cứu thương, hầm đạn, v.v..., ta đã bảo đảm được việc cơ động lực lượng và chiến đấu liên tục ngày đêm, bảo đảm sinh hoạt của bộ đội, trong điều kiện không quân và pháo binh địch đánh phá cực kỳ ác liệt.
Ngoài trận địa bộ binh, ta còn xây dựng trận địa vững chắc có hầm ẩn nấp cho pháo binh trên các sườn núi, sườn đồi, kết hợp với nhiều trận địa giả để đánh lừa quân địch, đồng thời xây dựng Sở chỉ huy chiến dịch, Sở chỉ huy các Ðại đoàn, Trung đoàn trong lòng đất để bảo đảm việc chỉ huy không gián đoạn.
Trong quá trình chiến dịch, bộ đội ta đã sáng tạo ra chiến thuật bao vây đánh lấn: dựa vào hệ thống trận địa đã đào gần cứ điểm địch, ta lấn dần, dùng hỏa lực bắn sập dần từng lô cốt, phá nổ dần các bãi mìn, bí mật cắt dần dây kẽm gai, hoặc đào đường hầm luồn qua hệ thống vật cản trên mặt đất rồi bất ngờ tiến công tiêu diệt địch. Cách đánh này gây cho địch thường xuyên căng thẳng, không biết đối phương đánh lúc nào mà đối phó, còn ta thì chủ động và hạn chế được thương vong. Ta đặc biệt coi trọng việc khống chế và chia cắt sân bay, từng bước thu hẹp vùng đất, vùng trời của địch, phát động rộng rãi phong trào thi đua bắn tỉa, đoạt dù tiếp tế, lấy của địch để tiếp tế cho mình.
Bằng cách đánh thích hợp, từ chỗ chỉ tiêu diệt được từng cụm cứ điểm riêng lẻ của địch do từng tiểu đoàn phòng giữ, bộ đội ta đã có bước tiến vượt bậc: Trong điều kiện vũ khí trang bị còn kém xa kẻ địch, ta đã tiêu diệt được cả một tập đoàn cứ điểm lớn với hơn 21 tiểu đoàn tinh nhuệ của đội quân viễn chinh xâm lược Pháp ở Ðông Dương, đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất của chúng.
Chính trên ý nghĩa đó mà Thiếu tướng Peter Mc Donald, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự người Anh đã nhận xét: "So với những trận vây hãm khác như người Mỹ cố thủ ở Batran 65 ngày, quân Ðức vây Leningrad 70 ngày, quân Anh giữ Tô-bơ-rúc 24 ngày, rồi 1 triệu quân Liên Xô vây 330.000 quân Ðức ở Stalingrad, v.v..." thì với hơn 50.000 quân Việt Minh vây đánh hơn 16.000 quân Pháp, trận Ðiện Biên Phủ không phải là có thứ hạng gì. Nhưng, điều làm nó nổi tiếng chính là ở cách đánh, ở tiến trình phát triển của cuộc chiến đấu cũng như kết cục và những hệ quả mà nó dẫn đến. Tất cả những điều đó đã làm cho Ðiện Biên Phủ trở thành một trong những trận đánh quyết định của mọi thời đại và đưa tên tuổi Võ Nguyên Giáp vào sử sách.
Ðược sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Hồ Chủ tịch và Thường vụ Trung ương Ðảng, sự chỉ đạo đúng đắn của Ðảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch mà Ðại tướng Võ Nguyên Giáp là người chịu trách nhiệm chính, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, sự giúp đỡ tận tình của các cố vấn quân sự Trung Quốc, sự chi viện to lớn của hậu phương, sự phối hợp có hiệu quả của quân dân hai nước Lào - Cam-pu-chia anh em, sự viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô, quân và dân ta đã lập nên một chiến công vĩ đại, chấn động địa cầu.
Thắng lợi của chiến cuộc Ðông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Ðiện Biên Phủ đã đè bẹp ý chí xâm lược của bọn thực dân, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Genève về Ðông Dương, công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào. Thủ đô Hà Nội và miền bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, trở thành căn cứ địa ngày càng vững mạnh của cách mạng cả nước, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ tiếp theo.
Là trận tiêu diệt lớn quân xâm lược nước ngoài đầu tiên không chỉ của Việt Nam ta mà của cả phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ 20, Ðiện Biên Phủ đã tạo niềm tin cho các dân tộc bị áp bức vùng lên, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
Cuối cùng, tại diễn đàn này, nhân dịp Kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Ðiện Biên Phủ tôi xin thay mặt toàn thể cựu chiến binh Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp, thay mặt các chiến sĩ Ðiện Biên Phủ, bày tỏ lòng nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam thời bấy giờ, Ðảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch Ðiện Biên Phủ đã có sự chỉ đạo cực kỳ sáng suốt; nhớ ơn đồng bào, chiến sĩ trên các chiến trường phối hợp và đồng bào hậu phương đã dốc sức chi viện cho tiền tuyến, tạo điều kiện cho chúng tôi lập công xuất sắc trong chiến cuộc Ðông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Ðiện Biên Phủ.