Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu cảm nhận của em về số phận của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến thông qua 2 nhân vật truyện người con gái Nam Xương và Kiều ở lầu Ngưng Bích

nêu cảm nhận của em về số phận của người phụ nữ vn dưới chế độ phong kiến thông qua 2 nv truyện người con gái nam xương và kiều ở lầu ngưng bich 
giúp tui nha
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
191
1
2
criss
27/08/2021 09:04:00
+5đ tặng

Thần thoại Hy Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biên động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng, chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết đức trung trinh của chim uyên ương đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ”. Có thể nói, người phụ nữ là biểu tượng của cái đẹp. Nhưng trong thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái, người phụ nữ phải chịu nhiều đắng cay, oan trái nhất. Thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và nhân hậu. Ta có thể bắt gặp hình ảnh của họ qua nhiều tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Trong xã hội phong kiến, dường như tất cả mọi thứ đều bất công với người phụ nữ. Tình yêu không, hạnh phúc không, tiếng nói cũng không. Nhưng, chính những áp bức đó đã làm sáng ngời lên những đức tính, phẩm hạnh đáng quý, đáng trân quý của người phụ nữ. Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của phụ nữ phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: “tư dung tốt đẹp”. Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi “mến vì dung hạnh” nên chàng Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ “dung” ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, song rất mực tuân theo “tam tòng tứ đức”, giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính mình. Thế nên, nàng rất “thùy mị, nết na”. Là chuẩn mực của người phụ nữ Việt Nam. Trong đạo vợ chồng, nàng hết sức khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép” để hy vọng có được một mái ấm gia đình hạnh phúc.

Tục ngữ có câu "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai của cô gái này. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Thời xưa, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe:

“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng”.

Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc trong nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà chồng: “Xanh kia quyết chẳng phụ

con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vậy là cả “công – dung – ngôn – hạnh” nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là đỉnh cao của sự hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến.

Đến với Nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, một trang tuyệt sắc giai nhân, một người con có hiếu, một tấm lòng vị tha bao dung. Khi gia đình gặp tai biến, chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:

“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.

Hy sinh mối tình riêng của mình để làm trọn chữ hiếu. Hành động đó khiến người đọc thật cảm phục:

“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”

Sống nơi đất khách quê người, nỗi nhớ về người yêu - biểu hiện của tình cảm chung thuỷ không hề vơi đi trong tâm hồn người con gái đáng thương này: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”. Kiều đã không giấu nỗi nhớ nhung da diết mãnh liệt của mình đối với chàng Kim. Vừa mới hôm nào cùng với Kim Trọng nặng lời ước hẹn trăm năm mà nay Kiều đã phải cắt đứt mối tình duyên ấy một cách đột ngột. Ngòi bút Tố Như thật tinh tế khi kể về tình cảm Thúy Kiều nhớ về người yêu cũng phù hợp với quy luật tâm lý và bộc lộ cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Chén rượu thề nguyền hôm nào dư vị còn đọng trên bờ môi, vầng trăng như vẫn còn kia, mà lại xa xôi cách trở. Kiều đau đớn nhớ tới người yêu, tưởng như lúc này chàng vẫn chưa hay biết việc nàng đã phải trầm luân trong gió bụi cuộc đời nên đang mong ngóng chờ đợi tin tức của nàng một cách uổng công vô ích!

Còn về phần nàng thì “Bên trời góc bể bơ vơ”, biết đến bao giờ mới phai được tấm lòng son mà nàng đã quyết định dành cho chàng từ cái buổi “thề non hẹn biển” hôm ấy. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” có thể hiểu là tấm lòng son sắt, nỗi nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi hoặc có thể hiểu là tấm lòng son sắt của Kiều đã bị dập vùi hoen ố biết bao giờ mới gột rửa được Kiều còn quên hết nỗi đau riêng của mình mà dành tất cả tình cảm thương nhớ cho cha mẹ, nàng thật là người có lòng vị tha:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?”

Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi trong trái tim Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót xa sâu sắc.

Thương thay cũng một kiếp người,

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.

Những là oan khổ lưu ly

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!...”

Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc đến não lòng. Từng từ, từng chữ tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo của tác giả khóc thương cho số đoạn trường.

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh vẫn là lời chung.

"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi dây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.

Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nàng đã phải bán mình chuộc cha. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để chấm dứt số kiếp trầm luân. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một giai nhân tài sắc vẹn toàn. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy. Bi kịch tình yêu của người con gái tài sắc đã khiến muôn đời sau phải thốt lên:

"Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”

(Tố Hữu)

Kết thúc của hai tác phẩm làm lòng ta chợt quặn lên thương xót. Thương xót bởi vì Vũ Nương đoan trang, tiết hạnh là thế, chung thủy là thế, vậy mà phải chịu vết nhục phải tự tử để rửa sạch và chỉ đến khi Trương Sinh hiểu được sự thật, lập đàn giải oan thì đã quá muộn màng. Thương xót bởi người con gái sắc nước hương trời trọn hiếu vẹn tình như Thúy Kiều lại bỏ mình nơi dòng sông lạnh lẽo. Phải chăng số phận của Vũ Nương và Thúy Kiều cũng chính là số phận bi đát của những người phụ nữ thời phong kiến. Số phận ấy mong manh như ngọn nến trước gió, sẵn sàng phụt tắt bất cứ lúc nào. Vũ Nương, Thúy Kiều… và biết bao số phân thật buồn thảm phụ nữ vẫn mãi đi vào ngõ tối.

Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã miêu tả chân thực và đầy xót xa số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về những người đàn bà bất hạ, đẹp người đẹp nết này, các nhà văn, nhà thơ đã dành một sự ca ngợi, một sự nâng niu vô bờ bến. Chúng ta cảm nhận được điều đó và càng thương xót cho thân phận của họ hơn bao giờ hết.

Văn học nghệ thuật ngày nay vẫn tiếp tục lưu giữ những vẻ đẹp của người phụ nữ trong một phương diện mới, khía cạnh mới.Và xã hội ngày nay đã tạo mọi điều kiện để phụ nữ thể hiện mình và hơn hết họ còn được xã hội tôn vinh qua các ngày lễ dành riêng cho phái nữ. Chúng ta hãy dần loại bỏ những lễ giáo hà khắc, cổ hủ trong thơ xưa và thay thế nó bằng những khúc ca vui ngợi ca về người phụ nữ. Xin mượn lời nhà thơ Xuân Quỳnh để thêm một lần nữa khẳng định giá trị và vai trò của người phụ nữ trong xã hội:

Một buổi sớm mai ướm bước chân mình trên cát
Người mẹ cho ra đời những Phù Đổng Thiên Vương
Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng
Là bác học hay là ai đi nữa
Cũng là con của một người phụ nữ
Người đàn bà bình thường không ai biết tuổi tên.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
Anh Daoo
27/08/2021 09:04:03
+4đ tặng

Viết về số phận người phụ nữ là một đề tài quen thuộc trong văn học. Đến với văn học Việt Nam trung đại, người đọc không thể không biết đến tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương, tác giả đã khắc họa chân thực thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Hình ảnh nhân vật Vũ Nương khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương chính là một đại diện cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến với đầy đủ những phẩm chất: công, dung, ngôn, hạnh. Tưởng rằng xinh đẹp tài năng là thế sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đời sau này lại chịu nhiều bất hạnh:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

(Nguyễn Du)

Nàng là một người vợ biết giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng bao giờ phải thất hòa. Đến khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”. Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đối đầu với hiểm nguy, chết chóc. Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.

Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. Đến khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương đã nói dối con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại ấy, sau này lại đem đến lại bi kịch cho cuộc đời nàng.

Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng ai ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe tin mẹ mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ dành: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã khiến chàng nghi ngờ vợ là thất tiết. “Cái bóng” trở thành người cha để an ủi con trẻ, nhưng lại trở thành lý do dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Khi trở về, Trương Sinh liền mắng vợ một bữa cho hả giận. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời giải thích cho chồng hiểu. Họ hàng, làng xóm bênh vực cũng không ăn thua. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, chẳng thể minh oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái chết để hết tội. Cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn đầy những bất công. Không thể tự mình quyết định tình yêu, hôn nhân và cả cuộc đời. Họ phải cam chịu, nhẫn nhục mà không thể phản kháng lại cái xã hội phong kiến ấy:

“Thân em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay”

Nhưng, câu chuyện mang tính nhân văn ở chỗ, tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu cho câu chuyện. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang - một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được Vũ Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc không có thật ngoài cuộc sống. Đó giống như là một giấc mơ của nhân dân ta rằng những người tốt rồi sẽ có được hạnh phúc. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở ước mơ mà thôi, khi Vũ Nương không thể trở về cuộc sống trần thế, chỉ có thể tiếp tục cuộc sống ở thủy cung.

Qua phân tích trên, người đọc dường như hiểu hơn về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhờ đó, chúng ta biết trân trọng và yêu thương họ nhiều hơn. Quả là một tác phẩm phẩm văn học luôn có sức lan tỏa và lay động mạnh mẽ đến tâm hồn con người.

Anh Daoo
Chấm điểm nha
1
1
Hằng Nguyễn
27/08/2021 09:04:14
+3đ tặng

Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương và Truyện Kiều của Nguyễn Du với Thúy Kiều - đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều đau khổ

Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân, có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không bình đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng có mối thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền bạc mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những ngày tháng chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa lọt lòng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vô hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bản thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” - như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:

Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Và đến Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” - tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Số phận của nàng còn lênh đênh hơn Vũ Nương rất nhiều. Lần này, dưới chế độ đồng tiền hôi tanh đen bạc. Nó đã tạo ra mười lăm năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp. Chỉ vì tiền mà bọn sai nha đã gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều. Để có tiền cứu cha và em trai của mình, nàng đã quyết định bán thân cho Mã Giám Sinh - một tên gian ác buôn thịt bán người. Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè, ngã giá... Và từ tay Mã Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà, mụ chủ nổi tiếng của thanh lâu. Là một người con gái xinh đẹp, tài năng, và đã sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, lương thiện gia giáo, dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà đã bày muốn thuê Sở Khanh lừa nàng, buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong trắng, đức hạnh, nàng đã trở thành một món đồ chơi thú vị cho bọn khách chơi. Số phận trái ngang của Kiều không chỉ dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, bèo dạt, mây trôi và lưu lạc mười lăm năm trời, đã chịu bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu.

Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất công với nữ nhi. Ở đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự :

Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ - “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non

Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thỏa hiệp. Nếu như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điều kiện phát triển.

Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×