Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chứa đựng thực chất và hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Chính V.I.Lênin đã khẳng định như vậy. Ông viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”[2]. Theo V.I.Lênin, “sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó..., đó là thực chất... của phép biện chứng”[3]. Trong phép biện chứng, mối liên hệ giữa các mặt đối lập chính là mâu thuẫn; sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Cần thiết phải nói rõ rằng, mâu thuẫn không phải là tri thức của riêng chủ nghĩa duy vật biện chứng hay của chủ nghĩa Mác. Mặc dù chủ nghĩa Mác đã có công cải tạo phép biện chứng từ duy tâm trở thành duy vật, làm cho quy luật mâu thuẫn đạt tới trình độ “mô hình tư tưởng” gần như vạn năng để con người giải thích và cải tạo thế giới, tuy nhiên việc phê phán triết học Mác - Lênin nhằm vào học thuyết mâu thuẫn là sự phê phán không đúng địa chỉ và không đúng đối tượng.
Bởi lẽ, ngay từ thời Cổ đại, bằng sự cảm nhận và “phỏng đoán thiên tài”, các nhà thông thái Hy Lạp đã xác nhận được những mối liên hệ phổ biến của mọi tồn tại, trong đó sự tác động qua lại của các mặt đối lập được xem là cái “hoàn toàn khách quan, là nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại”[4]. Những nhà tư tưởng được biết đến trong lịch sử triết học như là những người có công đặt nền móng cho học thuyết mâu thuẫn là Heraclitus, Lão Tử, Zeno, N.Kuzansky, D.Bruno..., và Hêghen. Nhưng công bằng mà nói, công lao đặc biệt đối với học thuyết mâu thuẫn (trước C.Mác) thuộc về Hêghen. Chính là nhờ Hêghen mà lý luận triết học về mâu thuẫn và về phép biện chứng trở nên có giá trị và có sức sống mãnh liệt kể từ thế kỷ XIX đến nay.
Với G.Hêghen, “tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”... Mâu thuẫn “là cái phủ định trong sự quy định bản chất của nó, là nguyên tắc của mọi sự tự vận động, mà sự tự vận động này không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện nào đấy của mâu thuẫn... Vận động là bản thân mâu thuẫn đang tồn tại”... “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực (импульс) và hoạt động”[5]. Theo C.Mác, “sai lầm chủ yếu của Hêghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”[6].
Cải tạo phép biện chứng Hêghen, chủ nghĩa Mác đã giải thích một cách duy vật về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như là “định luật của tri thức” và của thế giới khách quan.
2. Mâu thuẫn tồn tại khách quan với sự thống nhất tương đối và sự đấu tranh tuyệt đối của các mặt đối lập
Mặt đối lập (opposites, contraires, противоположности - thực ra không chỉ là “mặt” như trong tiếng Việt, mà là đối lập, cái đối lập, sự đối lập) là các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng, các quá trình, các sự vật, hiện tượng... vốn có trong “cái thống nhất” (đối tượng được xem xét). Chúng là “sự phân đôi của cái thống nhất” nên tồn tại và vận động trong sự phụ thuộc lẫn nhau, theo chiều hướng trái ngược nhau và loại trừ lẫn nhau, tạo thành mâu thuẫn nội tại của sự vật; nhưng đồng thời lại thống nhất với nhau. Nghĩa là, được gọi là mặt đối lập bởi vì chúng chỉ tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau (mặt đối lập này không thể tồn tại mà không có mặt kia) và loại trừ lẫn nhau (sự vận động của chúng đối lập trực tiếp với nhau).