Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam từ rất lâu đã trở thành đề tài hấp dẫn muôn thuở cho các nhà thơ, nhà văn. Đặc biệt qua các bài “Tự Tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương Vợ” của Trần Tế Xương chúng ta sẽ hiểu rõ thêm phần nào về thân phận của người phụ nữ thời xưa dưới chế độ phong kiến. Nhất là về phẩm chất cao quý và nỗi đau đến chua xót của những người phụ nữ thời bấy giờ.
Với bút pháp tả thực, từ ngữ giản dị đã gợi cho ta thấy được sự cô đơn lạnh lẽo trong cái không gian mênh mông thanh vắng đến trống trải của đêm khuya, âm thanh của tiếng trống như làm khuấy động bầu không khí yên tĩnh xung quanh và trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương. Từ ngữ "hồng nhan" như ám chỉ một người phụ nữ xinh đẹp, quyến rủ thế nhưng nó lại cứ "trơ" ra như là một sự mỉa mai. Hồ Xuân Hương đã mạnh dạng công khai một hiện thực hết sức bẽ bàng, chua xót mà bà đang nếm phải. Và cũng từ đó bà nhận ra được số phận của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến thối nát, với những quan niệm "trai thì năm thê bảy thiếp" đã làm cho người phụ nữ không có được một chỗ đứng trong xã hội, họ lo lắng cho thân phận trôi nổi của mình bởi họ không thể quyết định được duyên phận, số phận của bản thân họ.
Bà đã mượn rượu để quên tình đi, quên đi cái số phận hẩm hiu của mình, nhưng say rồi lại tỉnh lại càng buồn tủi hơn, đau khổ hơn và càng nhận ra cái vòng quẩn quanh trong cuộc đời thân phận thật sự của chính bản thân mình. Hình ảnh vầng trăng sắp tàn mà lại khuyết chưa tròn như ngụ ý một nhân duyên không trọn vẹn mà tuổi xuân thì cứ lạnh lùng trôi qua hết năm này qua năm khác mà không trở lại.
Khoảng không gian như được mở rộng hơn, xa hơn qua tầm nhìn của tác giả, những động từ "đâm", "xiên" của đá, rêu gợi lên một sức sống mạnh mẽ, dù đó là vật vô tri vô giác nhưng nó cũng có sức sống mãnh liệt đến nỗi nó cứ sống mãi sống mãi trong đôi mắt của Hồ Xuân Hương, cùng với sự bướng bỉnh thể hiện sự kháng cự đầy quyết liệt của Hồ Xuân Hương đã nói lên một nỗi khao khát được hạnh phúc, có được một mái ấm gia đình, được người chồng thương yêu chăm sóc chứ không phải ngồi một mình trong đêm khuya thanh vắng với sự cô đơn và lạnh lẽo trong nỗi buồn tủi.
Hồ Xuân Hương đã chán ngán, ngán ngẫm với nỗi cô đơn, buồn tủi, khi ngày này lại tiếp nối ngày khác, xuân này lại nối xuân khác mà qua. Tâm trạng chán chường trước một mảnh tình không được trọn vẹn mà phải "chia năm sẻ bảy" để rồi cuối cùng chỉ còn một mảnh "tí con con". Mặc dù Hồ Xuân Hương có bản lỉnh có giỏi gian như thế nào cũng không thoát khỏi được nghịch cảnh của số phận. Bởi người phụ nữ không hề có được địa vị trong xã hội này. Cái xã hội bất công "trọng nam khinh nữ", đã làm cho người phụ nữ điêu đứng, nhưng cũng từ đó những phẩm chất tốt đẹp của họ được bộc lộ rõ nét hơn…
Hoàn cảnh kiếm sống vất vả, lam lũ của bà Tú đã được giới thiệu rất rõ nét, thời gian cứ lặp đi lặp lại hết năm này sang năm khác, dù trời nắng hay mưa vả lại phải buôn bán ở mom sông là nơi nguy hiểm ẩn nấp, bà Tú phải làm việc vất vả, cực nhọc để "nuôi đủ năm con với một chồng" nói lên cái gánh nặng đôi vai, một bên là chồng, một bên là con. Đó không phải là một điều dễ dàng mà ai cũng có thể làm được.
Tác giả đã sữ dụng biện pháp tu từ đảo ngữ một cách tinh tế "lặn lội thân cò" vừa nói lên được cuộc sống vất vả tảo tần buôn bán ngược xuôi, vừa khắc họa rõ nét chân dung của bà Tú ở những nơi nguy hiểm vắng vẻ mà đáng ra việc đó phải dành cho người chồng, người cha, người trụ cột của gia đình thế nhưng bà Tú lại phải gánh lấy không một lời than phiền oán trách. Câu thơ còn gợi tả cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Buổi “đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy sự bắc trắc nguy hiểm.
Nói lên cái đức tính cao đẹp, giàu đức hy sinh, dù gian nan, vất vả thế nào thì cũng là duyên phận, bà Tú chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa, tủi cực chịu thương chịu khó vì chồng vì con, biết chịu thương chịu khó. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ trên đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp, tần tảo nuôi con của bà Tú nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.