Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống được tất cả người dân yêu mến và mong chờ. Và bánh chưng, bánh giầy là hai món ăn đặc trưng, không thể thiếu vào ngày Tết. Để giải thích về ý nghĩa, nguồn gốc của hai loại bánh này, ông cha ta thường kể cho con cháu mình nghe về truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy.
Truyền thuyết lấy bối cảnh vào thời vua Hùng Vương, khi vị vua đang cai trị đã đến tuổi già yêu, muốn truyền ngôi cho con cái của mình. Theo ông, người làm vua cần phải kế thừa được tài đức, lý tưởng của ông chứ không nhất thiết phải làm con trưởng. Điều đó gây nên một trận xôn xao trong các hoàng tử. Cuối cùng nhà vua ra chỉ rằng: Vào ngày lễ tiên vương, ai làm ra được một món ăn vừa ngon, lại ý nghĩa, được lòng tất cả mọi người thì sẽ được nối ngôi. Chiếu chỉ vừa ra, tất cả các hoàng tử đều ra sức tìm kiếm những món ngon quý hiếm, sơn hào hải vị từ khắp nơi. Chỉ mong làm hài lòng vua cha.
Trong lúc ấy, chỉ có người con trai thứ mười tám của ngài - hoàng tử Lang Liêu là chẳng làm gì cả. Bởi chàng có cuộc sống rất khó khăn, thiếu thốn. Nhà chàng chỉ có thóc lúa là nhiều, chứ chẳng có gì cả. Vậy nên, chàng tự bỏ mình ra khỏi cuộc đua dành ngôi báu. Một hôm trong khi nằm mơ, chàng được một vị thần báo mộng, chỉ cho cách làm món bánh ngon, giàu ý nghĩa từ gạo nếp. Nghe theo lời dạy của thần, Lang Liêu chọn thứ gạo nếp thơm lừng, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn. Đến ngày lễ tiên vương, món bánh của Lang Liêu trở thành món bánh vua cha ưng ý nhất. Các cận thần cũng trầm trồ khen ngon. Đã thế món bánh còn rất giàu ý nghĩa, tượng trưng cho sự hòa hợp của đất trời. Vì vậy, thuận lí thành chương, Lang Liêu được vua Hùng chọn trở thành người kế vị. Cũng từ đó, cứ đến dịp Tết, nhân dân ta lại đem gạo nếp ra làm bánh chưng, bánh giầy để đặt lên mâm thờ tổ tiên.
Tục lệ ấy đến bây giờ vẫn còn được giữ. Bởi món bánh ấy không chỉ ngon mà còn giàu ý nghĩa nữa. Nếu thiếu đi bánh chưng thì nghĩa là cái Tết ấy chẳng còn trọn vẹn nữa rồi.
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 2
Trong những truyền thuyết mà em đã được học, em thích nhất là truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy. Không chỉ bởi đây là một câu chuyện thú vị, mà còn bởi vì nó nhắc đến một truyền thống tốt đẹp vẫn được nhân dân ta lưu giữ từ ngàn đời nay.
Nhân vật chính của truyền thuyết đó là hoàng từ Lang Liêu. Chàng là con trai thứ mười tám của Vua Hùng. Tuy là hoàng tử, nhưng do mẹ mất sớm lại không được vua cha quan tâm. Nên từ nhỏ chàng không được sống trong nhung lụa như những hoàng tử khác. Trái lại, chàng sống gần gũi với thiên nhiên, với những người nông dân. Trong nhà chàng chỉ có thóc lúa là nhiều, chứ người hầu hay của cải, vàng bạc vô cùng ít ỏi. Vậy nên, khi nghe tin vua cha muốn tìm người nối ngôi, thông qua thử thách tìm ra món ngon nhất để thờ Tiên Vương. Thì chàng đã chẳng dám nghĩ đến việc chiến thắng. Bởi các hoàng tử khác ra lệnh cho quân lính đi khắp nơi tìm sơn hào hải vị còn chàng thì chẳng có gì.
Khi chàng đang trong tận cùng của sự chán nản, thì trong một lần ngủ say, chàng đã gặp được sự chỉ dẫn của thần. Thần dạy cho chàng biết được, thứ lương thực quý giá nhất trên đời này chính là hạt gạo chứ không phải món nào khác. Rồi chỉ cho chàng cách nấu món bánh từ gạo nếp sao cho thơm ngon nhất. Nghe theo lời dạy của thần, sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, chàng ngay lập tức bắt tay vào nấu bánh. Đầu tiên, chàng vào trong kho, tìm kiếm từng hạt gạo nếp, sao cho hạt nào cũng thật trắng trẻo, tròn đầy. Rồi đem đi vo thật sạch, không chút bụi bẩn nào. Sau đó chọn miếng thịt lợn thật tươi ngon, cùng với đỗ xanh làm nhân. Bên ngoài dùng lá dong gói lại, bọc thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ, quyện hết vào nhau. Sau đó, để thêm phong phú, vẫn là những hạt gạo nếp được lựa chọn kĩ càng ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn nặn thành hình tròn đầy đặn như mặt trăng.
Đến ngày lễ Tiên vương, hai món bánh của Lang Liêu được vua cha và các viên quan hết lời khen ngợi vì không chỉ ngon mà còn giàu ý nghĩa. Sau một hồi ngẫm nghĩ, vua Hùng nhận xét “Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau”. Nói rồi, ngài đưa ra quyết định “Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám”.
Sau khi lên ngôi vua, Lang Liêu trở thành một vị vua yêu dân như con được người người kính trọng. Hai món bánh của chàng cũng trở thành thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về. Đến tận bây giờ, Tết năm nào, em cũng được cùng bố ngồi bên bếp lửa nấu nồi bánh chưng. Đó là niềm vui mà khó câu chữ nào có thể tả xiết.