b.Khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Lênin xem vấn đề trao đổi hàng hoá như một hình thức chủ yếu của mối quan hệ kinh tế giữa thành thị và nông thôn, như một tiền đề cần thiết để xây dựng thành công CNXH. Khác với cơ chế giao nộp, trưng thu của Chính sách cộng sản thời chiến trước đây, cơ chế trao đổi sản phẩm kinh tế hàng hoá cho phép đạt được mục tiêu như:
Một là, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân, của xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá sẽ thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển.
Hai là, đây là con đường để Nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách chắc chắn, sản xuất lương thực càng mang tính chất hàng hoá sẽ khuyến khích nông dân mở rộng diện tích canh tác, thâm canh. Kết quả là tổng số lương thực của xã hội tăng lên, khối lượng lương thực vào tay Nhà nước qua con đường trao đổi và thu thuế cũng ngày càng tăng.
Ba là, làm sống động các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn.
Như vậy, V.I Lê nin đã cụ thể hoá quan điểm "bắt đầu từ nông dân" trong hai chính sách: thuế lương thực và trao đổi hàng hoá. Từ đó cho thấy chính sách thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực. Theo Người, để thực hiện trao đổi sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp cần giải quyết hai vấn đề:
- Thứ nhất, nguồn hàng hoá công nghiệp để trao đổi.
- Thứ hai, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế hàng hoá để thực hiện NEP với sự phục hồi và kích thích xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của sản xuất hàng hoá nhỏ.
Lê nin cho rằng: Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển không tránh khỏi. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng, tuy nhiên, không được coi thường, buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy.
c. Sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin chỉ ra rằng, trong một nước như nước Nga, kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế thì hễ có trao đổi tự do buôn bán, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, có tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Đó là một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị. Vấn đề là ở chỗ, thái độ của nhà nước vô sản cần như thế nào?
Chính sách đúng đắn nhất như Lê nin khẳng định là giai cấp vô sản cung cấp cho tiểu nông tất cả những sản phẩm công nghiệp mà họ cần dùng do những công xưởng lớn xã hội chủ nghĩa sản xuất ra để đổi lấy lúa mì và nguyên liệu. Nhưng hoàn cảnh lúc này không cho phép chính quyền Xô Viết làm được điều đó. Vậy cần phải làm thế nào? Theo Lê nin có hai cách giải quyết:
- Hoặc là tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân không phải là quốc doanh, tức là của thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và tiểu thương, mà sự trao đổi này là xu hướng không thể tránh khỏi khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, Lênin cho rằng "Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với Đảng nào muốn áp dụng nó".
- Hoặc là tìm cách hướng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lê nin cho rằng đây là chính sách có thể áp dụng được và duy nhất hợp lý.
Người nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với thế lực tự phát tư sản, nó gần CNXH hơn kinh tế của sản xuất hàng hoá nhỏ và tư bản tư nhân. Người đã tìm ra những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga lúc bấy giờ như: tô nhượng, hợp tác xã, đại lý, hợp đồng cho thuê. Tuy khác nhau, song các hình thức này đều nhằm khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng hoá của Nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ, bảo đảm sự thắng lợi của CNXH một cách vững chắc.
Rõ ràng, cơ chế kinh tế của thời kỳ Chính sách kinh tế mới mang tính chất quá độ, gián tiếp, theo hướng "không đập tan cơ cấu kinh tế và xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, mà là chấn hưng thương nghiệp bằng cách Nhà nước điều tiết những cái đó nhưng chỉ trong chừng mực chúng sẽ được phục hồi lại"[3]. Cơ chế này hoàn toàn khác với cơ chế kinh tế có tính chất mệnh lệnh trực tiếp của chính sách cộng sản thời chiến được thi hành trước đó.
Trong thời Lênin, các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước gồm có:
- Hình thức thứ nhất là tô nhượng, theo Lênin "là sự liên minh, một hợp đồng kinh tế với tư bản tài chính ở các nước tiên tiến"[4]. Ý nghĩa chính trị được Lênin xem xét trong hình thức tô nhợng - hình thức quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Tô nhượng là một sự liên minh do một bên này ký kết để chống lại bên kia và chừng nào mà chúng ta chưa đủ mạnh thì phải lợi dụng sự thù địch giữa chúng với nhau để đứng vững được.Vì vậy, "tô nhượng tức là tiếp tục chiến tranh trên lĩnh vực kinh tế, nhưng ở đây chúng ta không làm cho lực lượng sản xuất của chúng ta bị phá hoại, mà lại làm cho lực lượng đó phát triển lên"[5].
- Hình thức thứ hai là hợp tác xã (HTX) của người tiểu nông, đây là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì thông qua hình thức này, tạo điều kiện cho việc kiểm kê kiểm soát, nhưng nó khác với hình thức tô nhượng ở chỗ: tô nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp, còn chế độ HTX dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp sản xuất thủ công. Theo Lênin việc chuyển từ tiểu sản xuất hàng hoá nhỏ sang sản xuất lớn là bước quá độ phức tạp, bởi vì giám sát một kẻ được tô nhượng là việc dễ, nhưng giám sát các xã viên HTX là việc khó, đó là quá trình lâu dài dựa trên nguyên tắc tự nguyện.
- Hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong lĩnh vực thương mại, Nhà nước thu hút tư bản thương mại, trả hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
- Hình thức thứ tư là Nhà nước cho nhà tư bản thuê xí nghiệp, vùng mỏ khu rừng, đất đai .
Lênin đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện một nước còn tồn tại phổ biến nền sản xuất hàng hoá nhỏ, khẳng định "ở đây không phải là CNTB nhà nước đấu tranh với CNXH mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước với chủ nghĩa xã hội"[6]; "chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến to lớn dù phải trả học phí, là một việc làm đáng giá, điều ấy không những không làm cho chúng ta bị diệt vong, trái lại có thể đưa chúng ta đến CNXH bằng con đường chắc chắn nhất"[7].
Như vậy, trong tư duy kinh tế của Lênin thì Chính sách kinh tế mới gắn liền với sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước, Lênin đã phát hiện tính quy luật của việc chuyển hoá kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân lên chủ nghĩa xã hội thông qua hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
V.I.Lênin đã nêu chức năng mới của Nhà nước vô sản trong phát triển kinh tế như: điều tiết việc mua bán hàng hoá và luư thông tiền tệ, tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn, bán lẻ, phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các quan hệ tín dụng, coi thương nghiệp là mắt xích quan trọng trong việc triển khai NEP. Sở dĩ Lênin coi thương nghiệp là mắt xích trong triển khai NEP bởi vì mục tiêu quan trọng của NEP là thiết lập sự liên minh kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong điều kiện kinh tế lạc hậu phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất giữa chúng.