Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Lại bài viếng Vũ thị - Phân tích đoạn thơ: "Năm nay đào lại nở ... Hồn ở đâu bây giờ?"

6 trả lời
Hỏi chi tiết
819
0
0
Nguyễn Thị Thảo Vân
07/04/2018 13:08:58

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông

Bài làm

   "Lại bài viếng Vũ Thị" là bài thơ Nôm độc đáo trong "Hồng Đức quốc âm thi tập". Độc đáo là vì nó là một bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.

   Ở đây tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị và giàu cảm xúc.

   Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ tới vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:

 "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương". 

   Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Hình tượng khói hương tỏa nghi ngút trong miếu đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiếng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.

   Nhà thơ như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi cho mình "cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "cung nước cho lụy nàng". Các chữ "đừng nghe" và "lụy đến" chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch, đau xót trong cuộc đời:

 "Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho lụy đến nàng". 

   Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng, thủ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn trong sáng như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ "chẳng lọ" nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị, vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:

 "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng". 

   Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của một vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã lũy tre, bờ dâu ruộng tằm:

 "Qua đây bàn bạc mà chơi vậy, Khá trách chàng Trương khá phũ phàng". 

   Các chữ "khá trách", "phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thàm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.

   Bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" là một nén nhanh của Lê Thánh Tông trên đường kinh lý đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong những tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tô Hương Liên
07/04/2018 11:15:01

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông

Bài làm

   "Lại bài viếng Vũ Thị" là bài thơ Nôm độc đáo trong "Hồng Đức quốc âm thi tập". Độc đáo là vì nó là một bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.

   Ở đây tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị và giàu cảm xúc.

   Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ tới vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:

 "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương". 

   Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Hình tượng khói hương tỏa nghi ngút trong miếu đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiếng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.

   Nhà thơ như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi cho mình "cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "cung nước cho lụy nàng". Các chữ "đừng nghe" và "lụy đến" chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch, đau xót trong cuộc đời:

 "Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho lụy đến nàng". 

   Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng, thủ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn trong sáng như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ "chẳng lọ" nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị, vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:

 "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng". 

   Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của một vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã lũy tre, bờ dâu ruộng tằm:

 "Qua đây bàn bạc mà chơi vậy, Khá trách chàng Trương khá phũ phàng". 

   Các chữ "khá trách", "phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thàm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.

   Bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" là một nén nhanh của Lê Thánh Tông trên đường kinh lý đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong những tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.

0
0
Nguyễn Thị Thương
07/04/2018 11:15:01

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông

Bài làm

   "Lại bài viếng Vũ Thị" là bài thơ Nôm độc đáo trong "Hồng Đức quốc âm thi tập". Độc đáo là vì nó là một bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.

   Ở đây tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị và giàu cảm xúc.

   Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ tới vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:

 "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương". 

   Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Hình tượng khói hương tỏa nghi ngút trong miếu đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiếng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.

   Nhà thơ như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi cho mình "cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "cung nước cho lụy nàng". Các chữ "đừng nghe" và "lụy đến" chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch, đau xót trong cuộc đời:

 "Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho lụy đến nàng". 

   Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng, thủ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn trong sáng như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ "chẳng lọ" nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị, vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:

 "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng". 

   Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của một vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã lũy tre, bờ dâu ruộng tằm:

 "Qua đây bàn bạc mà chơi vậy, Khá trách chàng Trương khá phũ phàng". 

   Các chữ "khá trách", "phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thàm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.

   Bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" là một nén nhanh của Lê Thánh Tông trên đường kinh lý đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong những tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.

0
0
Nguyễn Thị Nhài
07/04/2018 11:15:01

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông

Bài làm

   "Lại bài viếng Vũ Thị" là bài thơ Nôm độc đáo trong "Hồng Đức quốc âm thi tập". Độc đáo là vì nó là một bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.

   Ở đây tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị và giàu cảm xúc.

   Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ tới vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:

 "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương". 

   Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Hình tượng khói hương tỏa nghi ngút trong miếu đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiếng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.

   Nhà thơ như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi cho mình "cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "cung nước cho lụy nàng". Các chữ "đừng nghe" và "lụy đến" chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch, đau xót trong cuộc đời:

 "Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho lụy đến nàng". 

   Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng, thủ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn trong sáng như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ "chẳng lọ" nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị, vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:

 "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng". 

   Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của một vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã lũy tre, bờ dâu ruộng tằm:

 "Qua đây bàn bạc mà chơi vậy, Khá trách chàng Trương khá phũ phàng". 

   Các chữ "khá trách", "phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thàm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.

   Bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" là một nén nhanh của Lê Thánh Tông trên đường kinh lý đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong những tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.

0
0
Nguyễn Thị Thảo Vân
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông

Bài làm

   "Lại bài viếng Vũ Thị" là bài thơ Nôm độc đáo trong "Hồng Đức quốc âm thi tập". Độc đáo là vì nó là một bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.

   Ở đây tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị và giàu cảm xúc.

   Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ tới vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:

 "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương". 

   Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Hình tượng khói hương tỏa nghi ngút trong miếu đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiếng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.

   Nhà thơ như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi cho mình "cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "cung nước cho lụy nàng". Các chữ "đừng nghe" và "lụy đến" chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch, đau xót trong cuộc đời:

 "Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho lụy đến nàng". 

   Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng, thủ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn trong sáng như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ "chẳng lọ" nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị, vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:

 "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng". 

   Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của một vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã lũy tre, bờ dâu ruộng tằm:

 "Qua đây bàn bạc mà chơi vậy, Khá trách chàng Trương khá phũ phàng". 

   Các chữ "khá trách", "phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thàm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.

   Bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" là một nén nhanh của Lê Thánh Tông trên đường kinh lý đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong những tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.

0
0
Nguyễn Thị Thương
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" của Lê Thánh Tông

Bài làm

   "Lại bài viếng Vũ Thị" là bài thơ Nôm độc đáo trong "Hồng Đức quốc âm thi tập". Độc đáo là vì nó là một bài thơ của một ông vua giỏi chữ hay thơ đã sáng lập ra Hội Tao Đàn, đã hướng tình thương xót đối với một người phụ nữ bình dân bạc mệnh.

   Ở đây tiếng thơ đúng là tiếng lòng, dung dị và giàu cảm xúc.

   Nhìn thấy khói hương và miếu thờ nơi đầu ghềnh mà chợt nhớ tới vợ chàng Trương, một người phụ nữ oan khổ:

 "Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương". 

   Đầu ghềnh mà nhà thơ nói đến là bờ dòng sông Hoàng Giang thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Vợ chàng Trương là Vũ Thị mà Nguyễn Dữ đã kể trong "Chuyện người con gái Nam Xương", Hình tượng khói hương tỏa nghi ngút trong miếu đầu ghềnh gợi tả vẻ linh thiếng và sự cảm thương trong lòng người đời tưởng nhớ đến người bạc mệnh.

   Nhà thơ như cất tiếng than nói về cái chết oan của Vũ Thị. Chỉ vì cái bóng đèn vu vơ qua miệng đứa trẻ thơ mà người vợ thủy chung, người mẹ hiền phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, gửi cho mình "cung nước". Giá mà Trương Sinh "đừng nghe trẻ" thì "cung nước cho lụy nàng". Các chữ "đừng nghe" và "lụy đến" chứa đựng biết bao nhiêu cảm thương. Nhà thơ có một cách nói nhẹ nhàng chê trách sự hồ đồ, nông cạn của chàng Trương là nguyên nhân dẫn đến mọi bi kịch, đau xót trong cuộc đời:

 "Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ, Cung nước chi cho lụy đến nàng". 

   Bốn từ Hán Việt được sử dụng rất chọn lọc ở phần luận đã làm cho giọng thơ thêm phần trang nghiêm, trang trọng: chứng quả, nhật nguyệt, giải oan, đàn tràng. Tâm hồn trong sáng, thủ chung của Vũ Nương được nhật nguyệt, được trời đất soi sáng, chứng quả cho. Lòng nàng vẫn trong sáng như ngọc Mị Châu, tâm hồn nàng vẫn thơm ngát như cỏ Ngu Mĩ. Cần chi lập đàn tràng để giải oan. Hai chữ "chẳng lọ" nghĩa là chẳng cần. Việc lập đàn tràng của Trương Sinh là một việc làm vô nghĩa vì đã có nhật nguyệt soi tỏ, chứng quả cho nỗi oan của nàng rồi. Lê Thánh Tông vừa ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của Vũ Thị, vừa chê trách chuyện lập đàn tràng của Trương Sinh. Cách nhìn của nhà vua rất nhân hậu, nhân bản:

 "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt, Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng". 

   Không nặng lời, nhiều lời! Cũng chẳng cao đạo mà chỉ "bàn bạc mà chơi vậy". Một cách nói rất dung dị, bình dị. Lời của một vị hoàng đế mà như tiếng nói của một thường dân nơi thôn dã lũy tre, bờ dâu ruộng tằm:

 "Qua đây bàn bạc mà chơi vậy, Khá trách chàng Trương khá phũ phàng". 

   Các chữ "khá trách", "phũ phàng" rất nhẹ nhàng mà nhân hậu, sâu sắc. Chàng Trương thật phũ phàng đáng trách đã gây ra cái chết thàm, chết oan cho người vợ hiền thảo của mình.

   Bài thơ "Lại bài viếng Vũ Thị" là một nén nhanh của Lê Thánh Tông trên đường kinh lý đã ghé qua miếu thờ và viếng Vũ Nương. Giọng thơ nhẹ nhàng, thương cảm. Nhà vua đã ca ngợi tiết hạnh của người phụ nữ bạc mệnh. Bài thơ đã kín đáo nêu lên cho đời bài học về đối nhân xử thế, cẩn trọng nhất là trong đạo vợ chồng. Thấm đẫm vần thơ của Lê Thánh Tông là một tình thương mênh mông. Nó là một trong những tác phẩm mở đầu chủ nghĩa nhân đạo trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư