Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Anh chị hãy tìm hiểu quan niệm sống của nhà thơ Chế Lan Viên qua bài thơ dưới đây. Hãy làm rõ qua bài Tự tình và Câu cá mùa thu

Nhà thơ chế lan viên từng viết : 
Bài thơ không được là cái đuôi của sự sống 
Sự sống có r thêm 1 cái đuôi 
Nhưng cg đừng là cái đầu như sư tử kì lân rằm tháng tám 
Tất cả múa may nhờ tay người 
Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy 
Lặn vào cuộc đời 
Rồi lại ngồi lên 
Anh chị hiểu ntn về quan niệm trên . Hãy làm rõ qua bài tự tình và câu cá mùa thu 
3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
5.910
0
4
Nguyễn Nhật Thúy ...
16/01/2018 21:22:56
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm cùa Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo.. và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo - teo - vèo - teo - bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Anh Pham
16/01/2018 21:24:04
Chế Lan Viên quan niệm sáng tạo thơ là một nghề cao quý trong xã hội, nhà thơ phải có vị trí, sứ mệnh cao cả đối với đời. “Nghề thơ”, không phải ai cũng làm được, bởi nhà thơ phải có hồn thi sĩ. Nhà thơ không chỉ biết tin yêu cuộc đời, có khát vọng vươn tới cái chân, thiện, mĩ của cuộc sống, mà còn phải thật sự khổ luyện để vượt lên tất cả. Nhà thơ cần phải nhìn, nghe và suy ngẫm để góp phần lí giải khám phá những vấn đề trong đời sống. Nghề thơ đòi hỏi nhà thơ phải có tài năng thơ mới có thể cảm nhận, khám phá, thể hiện cuộc sống một cách tinh tế, nhạy bén. Mặt khác, nghề thơ còn đòi hỏi nhà thơ vừa phải biết giữ gìn, trân trọng và phát huy cái tài năng “bẩm sinh trời cho”, vừa phải không ngừng học hỏi, tự bồi dưỡng, rèn luyện và trau dồi về mọi phương diện nhằm sáng tạo nên cái “thần mới” cho thơ.
Chế Lan Viên luôn xem việc học hỏi, sáng tạo là cuộc Vượt bể trong suốt cả đời mình và ông khẳng định, Nghề của chúng ta cần phải nắm bắt chính xác “vòng quay thời đại” để “tạo nên mùa” và đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích, phải luôn biết vượt lên tất cả để Săn thơ, Tìm thơ.
Chế Lan Viên đòi hỏi, nhà thơ cần phải có cá tính sáng tạo. Ông ví mỗi nhà thơ như một dòng sông mang đặc tính và vẻ đẹp riêng. Nhà thơ phải giữ được “cái tạng riêng” cho mình. Nếu chỉ biết đi theo lối mòn trong sáng tạo, thì nhà thơ tự “đánh mất mình”, hoặc sẽ rơi vào “cái đội quân nhạt nhạt mờ mờ”.
Nghề thơ đòi hỏi nhà thơ không chỉ có tài năng, mà còn phải có nhân cách, có cái tâm trong sáng bởi đó là gốc rễ của văn chương. “Đừng hợm hĩnh” và đừng bao giờ nghĩ rằng “không có các anh thì không ai uống sữa của Trời”.
Với quan niệm trên, Chế Lan Viên đã khẳng định vai trò, tầm vóc của nhà thơ trong đời sống xã hội, những người đã và đang làm công việc “vực sự sống ba chiều lên trang thơ hai mặt phẳng”.
Chế Lan Viên luôn có suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đạo đức trong đời sống xã hội. Ông luôn tự hỏi “ta vì ai”, “tôi viết cho ai?” để từ đó sáng tạo nên những vần thơ có ích cho đời và vui sướng khi trở thành “một người cầm bút có ích, làm thơ có ích”. Mặt khác, Chế Lan Viên quan niệm, thơ không chỉ “đưa ru”, “sưởi ấm” người đọc bằng tình cảm mãnh liệt, ước mơ lãng mạn, mà còn phải có khả năng “thức tỉnh” họ bằng ánh sáng của trí tuệ.
Qua cách thể hiện khác nhau, Chế Lan Viên luôn nhấn mạnh, thơ góp “thêm tiếng cười”, “thêm vị muối cho đời”, là “nhành hoa mát mắt cho đời”, thơ có khả năng kì diệu: “tát bể”, cân đời”, thơ làm cho con người tự tin hơn trong cuộc sống.
Từ quan niệm, thơ là “các đỉnh tinh thần chất ngất”, Chế Lan Viên đã chỉ rõ tác dụng mãnh liệt của thơ đối với người đọc, tác dụng đó vượt khỏi giới hạn về không gian. Cho dù câu thơ viết ở “kinh tuyến này” nhưng vẫn làm nên sự “rung động trào sôi ở kinh tuyến khác”.
Ông khẳng định: “thơ phải trả lời”, phải có khả năng giải đáp được những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong đời sống. Nếu thiếu lời giải đáp thì thơ đã mắc Nợ đối với đời. Chế Lan Viên còn muốn thơ phải là Thuốc có khả năng chữa lành vết thương trong cõi tinh thần con người, “có ích cho nỗi đau người”, để “phục sinh” con người. Thơ là Tiếng hú, một tín hiệu giao cảm để từ đó lay động tâm hồn người đọc khiến họ sống có ý nghĩa hơn đối với đời.
Tóm lại, Chế Lan Viên luôn tâm niệm: “thơ cần có ích / hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”, đó là cái đích mà Chế Lan Viên luôn hướng tới.
5
0
Bạch Ca
16/01/2018 21:33:31
  • 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
    - Mối quan hệ tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng với
    cuộc sống
    1.0
    2. Giải quyết vấn đề nghị luận:
    a. Giải thích quan niệm của Chế Lan Viên:
    - Bài thơ không được là cái đuôi của sự sống: Thơ ca không được
    theo sau, phản ánh máy móc những gì có trong cuộc đời bởi tất cả
    những cái đó sự sống đã có.
    - Nhưng cũng đừng là cái đầu như sư tử kỳ lân rằm tháng tám/Tất
    cả múa may nhờ tay người: Tác phẩm thơ ca không thể phản ánh
    những gì kì bí khó hiểu không có trong cuộc sống, chỉ do con
    người sáng tạo chủ quan.
    - Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy/Lặn vào cuộc đời/Rồi
    lại ngoi lên: Mỗi câu thơ chân chính phải là kết quả của sự “ngụp
    lặn” của nhà thơ vào cuộc đời, thể hiện trên trang thơ và thoát lên
    trong những cảm xúc, tình cảm, tư tưởng mới mẻ sâu sắc của nhà
    thơ. Nó như sự đóng góp của nhà thơ cho cuộc sống từ chính vốn
    sống mà đời ban cho thơ.
    b. Chứng minh qua hai tác phẩm:
    * Bài thơ không là cái đuôi của sự sống.../Nhưng cũng đừng là
    cái đầu sư tử kỳ lân…:
    - Cảnh ngày hè không theo sau vẽ lại một cách vô hồn bức tranh
    thiên nhiên, cuộc sống ngày hè một cách công thức, nhàm chán.
    Độc Tiểu Thanh kí không chỉ kể lại bi kịch của Tiểu Thanh mà
    người đời đã biết cả rồi.(HS có thể so sánh với những vần thơ công
    thức trong thơ ca trung đại)
    - Cảnh ngày hè và Độc Tiểu Thanh kí không phải là những vần thơ
    kì bí, xa rời hiện thực cuộc sống và trình bày những tư tưởng cao
    siêu của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. (HS có thể so sánh với những
    vần thơ trình bày tư tưởng triết học, tôn giáo cao siêu…)
    * Cảnh ngày hè và Độc Tiểu Thanh kí là những vần thơ “lặn
    vào cuộc đời”, “lặn vào trang giấy”:
    - Cảnh ngày hè:
    + Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống ngày hè được nhà thơ chắt lọc
    từ cuộc sống, mang vẻ đẹp tràn đầy sức sống, có hồn có thần (phân
    tích 6 câu thơ đầu)
    + Ẩn sau bức tranh thiên nhiên là sự lắng lại, tĩnh tại của hồn
    người, để cảm nhập hồn cảnh, hồn tạo vật, cho thấy lòng yêu thiên
    nhiên, yêu cuộc sống của thi nhân.
    + Tư tưởng thân dân và tấm lòng ưu dân ái quốc của Nguyễn Trãi
    là kết quả của sự lặn ngụp với đời và bay thoát, tỏa sáng trên trang
    thơ (phân tích 2 câu cuối).
    - Độc Tiểu Thanh kí:
    + Lấy chất liệu từ những đau khổ, bi kịch của con người trong cuộc
    đời: Nguyễn Du viết những vần thơ thể hiện nỗi thương người,
    thương mình (đồng cảm cho bi kịch của Tiểu Thanh, bi kịch của
    kiểu người tài hoa bạc mệnh trong thiên hạ qua 6 câu đầu).
    + Thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc mới mẻ thế kỉ XVIII: tiếc
    thương cho cái đẹp bị hủy diệt vùi dập bởi thời gian, bởi cuộc đời,
    nỗi tự thương mình đầy sự tự ý thức về sinh mệnh cá nhân.
    + Niềm khát khao tri âm đồng cảm vượt thời gian là tư tưởng sâu
    sắc của nhà thơ chắt lọc từ hiện thực cuộc sống: Cuộc đời có thể bị
    hủy hoại nhưng giá trị tinh thần của con người trường tồn nếu như
    được nâng niu trân trọng, nếu có những tấm lòng sẵn sàng khóc
    cho nhau, đồng cảm với nhau. Đây chính là kết quả của sự thấu
    hiểu đời sống sâu sắc và đưa nó lặn vào trang giấy sau những vần
    thơ.
    c. Đánh giá
    -Ý kiến trên xác đáng, chỉ ra mối quan hệ giữa văn học và hiện
    thực đời sống, là một quy luật trở thành kim chỉ nam cho người
    sáng tác và tiếp nhận văn học.
    - Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai nhà thơ chắt lọc những vang
    động, nắm bắt lấy cái hồn của cuộc sống nhưng gửi gắm vào thơ
    những tình cảm, tư tưởng mới mẻ, xứng đáng là hai cây đại thụ của
    văn học trung đại Việt Nam

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×