LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Bài thơ Ông đồ gợi cho em suy nghĩ gì về việc bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

4 trả lời
Hỏi chi tiết
15.465
28
19
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
10/01/2018 21:21:53
Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh ông đồ đội khăn xếp mặc áo the đã khắc ghi sâu vào tâm trí của hàng triệu người dân Việt Nam trong đó có nhà thơ Vũ Đình Liên. Để rồi tác giả viết lên bài thơ 'ông đồ' với 1 niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận ông đồ, cho 1 lớp người tàn tạ và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.
 Mở đầu bài thơ hình ảnh ông đồ già đã xuất hiện trong dòng suy tưởng, hoài niệm của tác giả:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Cấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui , náo nhiệt của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng mình có:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Từ bao nhiêu cho người đọc thấy được ông đồ được mọi người rất yêu mến. Sự có mặt của ông đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc đối với ông không chỉ là có nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài – Bởi ông có tài viết chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ.Với sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ. Nhưng liệu có bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý nghĩ sâu xa của từng câu, từng chữ để mà chia sẻ cái niềm vui, niềm hạnh phúc với người viết ra những câu chữ ấy?. Ở khổ thơ thứ 3 vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn đâu bao nhiêu người thuê viết- Tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương thấp thoáng ở 2 câu thơ trên, giờ đây cái cảm xúc đó được thể hiện trong câu hỏi đầy băn khoăn day dứt:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Cũng là mỗi năm nhưng lại đứng sau từ nhưng- con chữ thường làm đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. Để rồi 1 chút hy vọng nhỏ nhoi của ông đồ là góp chút vui cùng mọi người vào mỗi dịp tết đến xuân về cũng dần tan biến và cuộc sống mưu sinh của ông đồ già cũng ngày càng khó khăn. Bằng câu hỏi tu từ hết sức độc đáo, Vũ Đình Liên đã thể hiện 1 nỗi nuối tiếc của 1 thời kì vàng son để rồi đọng lại thành nỗi sầu, nỗi tủi thấm sang cả những vật vô tri vô giác:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
48
14
Chồn Tung Lịch
10/01/2018 21:21:55
Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự ru nhập của lối sống tư sản, suy giảm thuần phong mỹ tục, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Thanh niên là lực lượng xung kích, sáng tạo có vai trò quan trọng to lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, họ là lực lượng trực tiếp tham gia bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc thực hiện nội dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để phát huy vai trò của thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay chúng ta phải thực hiện có hiệu quả một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được xây dựng và ghi nhận bởi những chiến công hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Nó là kết tinh những gì là tinh túy nhất của dân tộc để rồi chính những giá trị đó lại lung linh tỏa sáng, soi sáng con đường chúng ta đi. Không chỉ bây giờ mà mãi mãi về sau những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ là hành trang, động lực để cho thanh niên Việt Nam chúng ta tiến vào kỷ nguyên mới tô thắm nên truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc.
19
13
Bạch Ca
10/01/2018 21:35:12
Nhiều người trong chúng ta chắc đã có lần đọc bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liênvà khi đó, hẳn chúng ta đều dễ dàng chia sẻ với tác giả cảm giác xót xa, mất mát. Không khỏi ngậm ngùi trước tình cảnh “chợ chiều xế bóng” của ông đồ già, nhưng mặt khác, cũng phải thừa nhận một sự thật tất yếu là ông đồ già, cùng mặt hàng “mực tàu, giấy đỏ” của ông đã lỗi thời, không còn phù hợp với nhu cầu cuộc sống nữa, do đó đương nhiên sẽ bị đào thải.
Mặc dù nhận thức như vậy nhưng khi đọc “Ông đồ”, chúng ta vẫn không thể không động lòng trắc ẩn trước tình cảnh của một lớp người, một ngành nghề đã bị bỏ rơi, bị mai một trước sự thay đổi của thời đại. Trong bài thơ, dù rất ngắn ngủi, tác giả đã tái hiện một cách sinh động toàn bộ “vòng đời sản phẩm” của nghề viết chữ thuê ngày Tết của ông đồ.
Trong hai khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên “giai đoạn phát triển” trong công cuộc kinh doanh của ông đồ:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Trên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Trong chuyên môn của mình, ông đồ là người có tay nghề cao, được tín nhiệm và cũng có chú ý tiếp thị cho “mặt hàng” của mình. Chúng ta đều biết thư pháp chữ Nho đòi hỏi trình độ nghệ thuật cao, muốn viết chữ đẹp phải trải qua một quá trình luyện tập lâu dài và phải có “hoa tay”. Thậm chí, ngày xưa còn có tục “xin chữ” của những nhà Nho tên tuổi về treo trong nhà để lấy khước, mà cụ Nguyễn Khuyến là một ví dụ.
Tại Trung Quốc, những bức thư hoạ của những nhà thư pháp nổi tiếng thời xưa còn được lưu giữ đến tận bây giờ và được bán với giá rất cao. Ở Việt Nam, khi chữ Nho còn thịnh hàng năm vào ngày Tết, dân gian có lệ đi mua những bản viết chữ Nho trên giấy đỏ về treo trong nhà như một vật trang trí. Ông đồ trong bài thơ này là người kinh doanh nghề đó.
Ông có tay nghề cao, có “hoa tay thảo những nét, như phượng múa rồng bay”, lại biết chọn chỗ “đông người qua” lại để “chào hàng” của mình. Và công cuộc kinh doanh của ông tỏ ra khá phát đạt. Tuy nhiên giai đoạn hưng thịnh này rồi cũng qua. Khi thực dân Pháp sang đô hộ Việt Nam, văn hoá phương Tây tràn vào nước ta. Chữ Nho dần dần mất chỗ đứng trong xã hội, nhất là từ khi dưới áp lực của người Pháp, Triều đình nhà Nguyễn chính thức bãi bỏ các kỳ thi chữ Hán hàng năm.
Các nhà Nho lúc ấy đều rơi vào cảnh “chợ chiều xế bóng”, một số nhạy bén hơn thì phải “vứt bút lông đi, giắt bút chì” (Tú Xương), số còn lại đều thất nghiệp và dần bị quên lãng. Ông đồ của chúng ta cũng nằm trong số này. Vì không chịu thay đổi “mẫu mã hàng hoá” cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu mới nên việc kinh doanh của ông đồ nhanh chóng chuyển từ giai đoạn “bão hoà” sang “suy thoái”:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài đường mưa bụi bay.
Qua hai khổ thơ này, dù không một lời miêu tả cụ thể về ông đồ, ngòi bút tài hoa của tác giả cũng cho chúng ta thấy tình cảnh đáng buồn của ông khi chữ Nho ngày càng yếu thế, “mặt hàng” tiêu thụ kém khiến “khách hàng” thưa thớt, “mỗi năm mỗi vắng người thuê viết”. Vì thế, đến “giấy đỏ” cũng “buồn không thắm” nổi, “mực tàu” vì không dùng đến nên cũng “đọng trong nghiên sầu”.
Bản thân “người sản xuất” là ông đồ thì tuy vẫn phải ngồi đấy nhưng “qua đường không ai hay” , khung cảnh trời mùa Đông cận Tết với “lá vàng”, “mưa bụi” như cũng chia buồn với ông. Cuối cùng, cũng như tất cả các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ khác, việc kinh doanh của ông đồ cũng dần đi đến chỗ phá sản và ông phải từ giã thương trường. Với tấm lòng đồng cảm của nhà thơ, cảnh này đã được mô tả thấm đượm tình người:
Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Đọc hai câu đầu, ta không khỏi liên tưởng tới hai câu Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du, lấy ý từ bài thơ (1) của Thôi Hộ đời Đường:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Hai câu thơ này đặc biệt thành công khi dùng thủ pháp so sánh giữa cảnh và người để nêu bật lên sự thay đổi của con người. Cảnh vật là “hoa đào” thì vẫn còn đó, vẫn nở đón xuân như mọi năm nhưng “ông đồ xưa” thì không thấy nữa. Chắc cũng như những nhà Nho thất thế khác, ông đồ đã lui về quê, dựa vào con cháu để sống nốt những ngày tàn của đời mình trong sự tiếc nuối “thời oanh liệt nay còn đâu?”.
Bên cạnh nỗi đau mất nghề, cùng với cả dân tộc, ông còn mang nặng nỗi đau mất nước, khi cùng với sự tràn ngập của chữ quốc ngữ, thực dân Pháp ngang nhiên thống trị trên đất nước ta trước sự bất lực của vua quan triều Nguyễn. Cũng vì cùng tâm sự đó, tác giả đã kết thúc bài thơ bằng hai câu tuyệt tác:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Ở đây, tác giả không chỉ muốn nói lên sự xót xa cho thân phận của một ông đồ, một ngành nghề mà như muốn nói lên nỗi đau trước sự mất mát của một lớp người tinh hoa cũ, cùng với họ là cả “quốc hồn, quốc tuý” của cả dân tộc trước sự xâm lăng của văn hoá ngoại lai.
*
“Bình cũ, rượu mới”, sau hơn nửa thế kỷ đọc lại bài thơ này, ta thấy vấn đề nhà thơ đặt ra ngày ấy vẫn giữ nguyên giá trị thời sự của nó. Ngày nay, dù không còn bị ngoại bang thống trị nhưng việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc vẫn đang là vấn đề cần được quan tâm.
Công bằng mà nói, công cuộc đổi mới đã đem lại một sự khởi sắc rõ rệt cho nền kinh tế Việt Nam, nhưng bên cạnh đó, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề đáng suy nghĩ, đặc biệt là về văn hoá. Sự giao lưu với các nền văn hoá bên ngoài đã giúp chúng ta tiếp nhận được nhiều thành tựu mới của văn hoá thế giới nhưng cũng mở đường cho nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Nguy cơ này đang lan tràn khắp mọi nơi, trong mọi tầng lớp nhân dân.
Hiện tượng sùng bái hàng ngoại, sùng bái tư tưởng ngoại quốc đã xuất hiện ở nhiều nơi, gây nên những xáo trộn nghiêm trọng trong đời sống nhân dân. Thực tế đã chứng tỏ, nếu chỉ chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà bỏ qua yếu tố văn hoá, nhất là văn hoá dân tộc sẽ dẫn đến hậu quả khó lường như băng hoại các giá trị tinh thần, phá huỷ các phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc... dẫn đến sự bất ổn sâu sắc trong xã hội.
Văn hoá là sự vận động không ngừng để loại bỏ cái cũ, cái lỗi thời, xây dựng những nét văn hoá mới, phù hợp với thời đại. Vì vậy, “bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác đồng thời chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán cũ” (2). Đây chính là mong mỏi của đông đảo người Việt Nam để bảo vệ và duy trì truyền thống của cha ông!
Nhìn rộng ra, điều này cũng đúng trong lĩnh vực kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, hàng ngày, hàng giờ chúng ta phải chứng kiến những mặt hàng, những doanh nghiệp “một thời vang bóng” của Việt Nam đang dần đi vào suy thoái rồi phá sản, đẩy hàng ngàn con người vào cảnh thất nghiệp, trong khi hàng ngoại tràn ngập trên thị trường. Những cảnh tượng này chắc cũng gây nên nhiều nỗi xót xa không kém gì tình cảnh của ông đồ thời xưa.
Trước tình cảnh đó, chúng ta không khỏi đặt ra câu hỏi: ”Phải chăng không có cách nào để tránh khỏi tình trạng này?” Cũng giống như trong vấn đề bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, câu trả lời là: trong thương trường cũng như trong văn hoá và như trong nhiều lĩnh vực khác, việc biết phát huy thế mạnh sẵn có, kết hợp với việc học hỏi những kiến thức mới luôn là chìa khóa để dẫn đến thành công.
Thực tế, trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã nhanh nhậy cải tiến mẫu mã, tìm ra mặt hàng mới để kinh doanh nên đã vượt qua các khó khăn ban đầu khi chuyển sang kinh tế thị trường, củng cố được vị trí của mình và ngày càng phát triển hơn như Trung Nguyên, FPT...
Có lẽ trong tất cả các ngành khoa học xã hội, kinh tế là ngành đòi hỏi sự năng động nhất. Để xây dựng được lòng tin với khách hàng, giữ vững uy tín của doanh nghiệp và của sản phẩm, nhà kinh doanh cần có kiến thức cơ bản vững vàng và luôn học hỏi để cập nhật với những thông tin mới nhất của thời đại.
Có như vậy chúng ta mới tránh khỏi nguy cơ trở thành những “Ông đồ” mới và xây dựng cho mình một hành trang vững vàng trên bước đường tham gia ào quá trình Toàn cầu hóa, quốc tế hoá của thế kỷ XXI.
31
8
Bạch Ca
10/01/2018 21:36:38
Ngày Tết, trong mỗi gia đình Việt Nam thường không thể thiếu những món ăn vật chất lẫn tinh thần đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Đặc biệt là câu đối đỏ, ngày Tết dù có bận đến trăm công nghìn việc, ai cũng tự tặng cho mình một câu đối, để cầu tài, cầu lộc, an khang thịnh vượng suốt một năm trời.Người Việt xưa thường có thú chơi tao nhã là thói quen xin chữ để gửi gắm những mong ước, khát vọng an lành. Đó là chữ nho, thứ chữ tượng hình giàu ý nghĩa. Học, hiểu được chữ nho đã khó, viết được cho thật đẹp lại càng khó hơn. Ngày nay,do sự bận rộn của cuộc sống,thú vui tao nhã ấy ngày càng bị mai một đi. Tuy nhiên, giữa cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp, nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc vẫn còn tiềm ẩn và luôn được nâng niu, giữ gìn. Những năm gần đây, cứ mỗi độ Tết đến xuân về, nhiều gia đình đã chú ý chọn mua những câu đối đỏ, những bức thư pháp treo trong nhà để cầu an, cầu lộc. Thỉnh thoảng, bên hè phố chúng ta vẫn gặp những thanh niên trong trang phục áo the, khăn đóng hay những ông đồ nho thảo những nét bút “Phượng múa rồng bay” trên giấy điều đỏ thắm. Đấy quả là tín hiệu đáng mừng để tìm về một giá trị văn hóa cổ truyền đã bị lãng quên. Hy vọng rằng những câu đối đỏ, những bức thư pháp, những con chữ ấy sẽ hồi sinh và bay lên trong niềm hân hoan của mọi nhà.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư