LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của anh (chị) về hào khí Đông A được thể hiện qua bài thơ Tỏ lòng

2 trả lời
Hỏi chi tiết
419
1
0
doan man
23/12/2018 20:19:04
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:
Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.
Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.
Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.
Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Bánh Bao Nhỏ
23/12/2018 20:40:34
Mỗi trang văn đều được phủ bóng bởi thời đại mà nó ra đời. Thật vậy, văn học và hiện thực cuộc sống luôn có mối quan hệ gắn bó bền chặt. Bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão được phỏng đoán ra đời năm 1284- khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Bởi vậy mà bất cứ ai khi đến với tác phẩm đều cảm nhận được âm vang hào khí Đông A toát ra từng câu chữ.
Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng Hán gồm bộ A và chữ Đông. Còn hào khí Đông A là khí thế chiến đấu hào hùng của đời Trần và cũng là của dân tộc ta từ thế kỉ X đến thế kỉ XV dựa trên sức mạnh tinh thần tự lập, tự cường, của ý chí quyết chiến, quyết thắng chống mọi kẻ thù xâm lược. Hào khí Đông A là sản phẩm tinh thần kì vĩ của thời đại hào hùng. Âm vang của hào khí Đông A phần nào được tái hiện qua bài "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão với vẻ đẹp hùng dũng, cao cả và khát vọng lập công của người tráng sĩ.
Trước hết, hào khí Đông A toát ra từ sự biểu dương và ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh của con người thời đại nhà Trần. Một thời đại hào hùng sẽ được làm nên bởi những con người hào hùng. Trong dòng cảm xúc của một vị tướng, ta thấy lắng lại bức chân dung kì vĩ của đấng nam nhi thời loạn. Bức chân dung ấy được khắc họa qua vẻ đẹp tư thế giữa không gian rộng lớn:
  • "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"
Câu thơ hướng tới vẻ đẹp người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo trấn giữa đất nước đã chẵn mấy thu. Trong bản dịch thơ, chữ "hoành sóc" được dịch là "múa giáo"- tư thế động, biểu diễn, phô trương có chút gì đó như ngang tàn. Dịch như thế phần nào mất đi sự chắc chắn trong khi phiên âm thì "hoành sóc" được dịch "cần ngang ngọn giáo"- tư thế tĩnh, dáng đứng hiên ngang, lẫm liệt, tâm thế sẵn sàng chiến đấu, chủ động nghênh đón mọi thử thách của cuộc chiến. Hai chữ "hoành sóc" làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Vẻ đẹp của tư thế ấy được đặt trong không gian rộng lớn "giang sơn"; thời gian dài, sâu, vô tận "kháp kỉ thu". Hình ảnh thơ mang tính ước lệ, không gian đậm tô tầm vóc lớn lao, hùng vĩ của người tráng sĩ; thời gian nhấn mạnh sự dẻo da, kiên định, bền bỉ, tận trung báo quốc của người chiến binh nhà Trần. Như vậy bằng âm điệu chắc khỏe hào hùng, bút pháp đậm tính sử thi, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp của tráng sĩ nhà Trần.
Khí thế hào hùng của thời đại mang tinh thần quyết chiến, quyết thắng:
  • "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"
Nếu câu thơ thứ nhất miêu tả vẻ đẹp cá nhân anh hùng thì đến đây là cả vẻ đẹp của đoàn quân anh hùng. Hình ảnh thơ được mở rộng. "Tam quân" là tiền quân, trung quân, hậu quân- cách nói ước lệ cho quân đội nhà Trần. Phép so sánh ngầm "tam quân tì hổ" nghĩa là sức mạnh của quân đội nhà Trần cũng dũng mãnh như hổ báo. Pháp ẩn dụ đã nói lên cái mạnh mẽ, hùng cường- sức mạnh phi thường của cả đoàn quân. Nửa còn lại trong câu thơ, nghiêng về khái quát khí thế xung trận, chiến đấu của quân đội nhà Trần. Có hai cách hiểu về "khí thôn ngưu". Đó có thể là khí thế nuốt trôi trâu- một biểu tượng mang tính ước lệ để nói về những người trẻ tuổi có khí phách anh hùng của quân đội nhà Trần. Bên cạnh đó, ngưu còn là tên gọi của một vì sao trên trời, với nghĩa này thì câu thơ lại mang hàm ý là hào khí bốc lên át cả sao ngưu. Cả hai cách hiểu đều không mâu thuẫn, cùng hướng tới mục đích làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế hào hùng của quân đội nhà Trần khi xung trận. Điều đó đã lí giải tại sao trước một thế lực ngoại xâm hung tàn như giặc Nguyên Mông mà một dân tộc nhỏ bé, khiêm tốn lại có đủ sức mạnh để đối đầu và chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh cộng hưởng của tinh thần đoàm kết trong hào khí Đông A.
Hào khí Đông A không chỉ thể hiện ở tinh thần sục sôi khi ra trận mà nhiều khi còn được thể hiện kín đáo và sâu sắc trong những suy tư của con người, đặc biệt là qua khát vọng lập công danh của con người thời loạn. Lập công báo đền nợ nước làm bật lên cái chí lớn lao và cái tâm cao cả của người tráng sĩ:
  • "Nam nhi vị liễu công danh trái
  • Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"
Chí là chí làm trai mang tinh thần và tư tưởng tích cực. Chính điều đó đã tạo đà cho người tráng sĩ, làm động lực ra trận lập công và chiến thắng. Còn cái tâm của người anh hùng lại hiện rõ qua nỗi thẹn Vũ Hầu. Như vậy, hào khí Đông A không chỉ thể hiện ở lòng yêu nước, căm thù giặc mà nó còn nằm trong tâm tư sâu kín của vị tướng tài ba.
Hào khí Đông A đã góp phần tọa nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh trong sử sách. Hào khí không chỉ thể hiện trong lời thơ của một người mà còn là tinh thần của cả một thời khiến cho các thế hệ sau này luôn tự nhủ phải làm gì để xứng đáng với cha ông. Qua bài thơ "Thuật hoài", hào khí Đông A luôn sục sôi được toát ra nhờ thủ pháp gợi thiên về ấn tượng bao quát, bút pháp hoành tráng, có tính sử thi với hình tượng thơ lớn lao, kì vĩ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư