Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều được thể hiện qua đoạn trích 'Trao Duyên' trích truyện Kiều của Nguyễn Du

1. Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều được thể hiện qua đoạn trích 'Trao Duyên' trích truyện Kiều của Nguyễn Du
2. Phân tích nhân vật Từ Hải qua đoạn trích 'Chí khí anh hùng', trích truyện Kiều Nguyễn Du
6 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
449
0
0
Trần Thanh Thủy
05/05/2019 10:27:46
Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của những con người hiếu thảo : "Để lời thệ hải minh sơn / Làm con trước phải đền ơn sinh thành." Khi mâu thuẫn giữa hiếu và tình đã được giải quyết, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và nhức nhối hơn. Đoạn trích Trao duyên đã khắc họa sâu sắc bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến chúng ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.
Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với chính mình, với ngọn đèn in bóng đau khổ đã cạn dần với chiếc khăn thấm lệ đã đẫm nước mắt : "Dẫu chong trắng địa, lệ tràn thấm khăn". Điều gì đã khiến nàng "ngồi nhẫn tàn canh". Trong tâm trạng "bàn hoàn" đến vậy ? Chỉ đến khi Thúy Vân "ghé đến ân cần hỏi han" Kiều mới thổ lộ tâm sự sâu kín của nàng. Người con gái tài sắc ấy không chỉ có lòng hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu, nàng là con người thiết tha, sâu nặng, vị tha đến quên mình. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn ,nhân cách của Thúy Kiều. Số phận nàng ngày mai không biết sẽ ra sao nơi đất khách quê người, nhưng hiện tại trong giờ phút này, Kiều một lòng một dạ hướng về người yêu. Điều này được thể hiện rõ qua lời khẩn cầu thiết tha đối với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cái sâu sắc nước đời của Tố Như thể hiện ở việc lựa chọn từ ngữ diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong những từ biểu đạt sự nhờ vả : nhờ, mượn , phiền,... Nguyễn Du chọn từ cậy, vì chỉ từ này mới hàm chứa hai nội dung : nhờ và tin. "Chịu lời"chứ không phải nhân lời vì nhận lời là sự tự nguyện của Vân. Song việc Kiều sắp nhờ cậy em gái là một sự nài nỉ, bắt buộc , không nhận không được, là đưa cả chính nàng và Vân vào hoàn cảnh khó xử. Đó là việc Vân thay Kiều trả "nghĩa" cho Kim Trọng : xót tình máu mủ thay lời nước non ". Trong quan niệm của người trung đại tình thường gắn với nghĩa. Cả ba người trong cuộc đều coi viẹc trả nghĩa này là hợp lí. Nhưng cho dù đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của Vân : "Keo loan khắp mối tơ thừa mặc em". Thúy Kiều vẫn đưa ra những lí lẽ để thuyết phục em gái. Chính những lí lẽ ấy càng thể hiện rõ tình yêu sâu nặng Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, càng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Nói với em, thuyết phục em mà Kiều như sống lại những kí ức tình yêu với Kim Trọng : "Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề " ; trao kỉ vật tình yêu cho Vân : chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,...mà những mong thông qua đó, nàng có thể hiện diện trong tình yêu, trong nỗi niềm với Kim Trọng.
Song càng nặng tình với chàng Kim bao nhiêu, Kiều càng rơi vào bi kịch khổ đau bấy nhiêu. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ : "Giữa đường đứt gánh tương tư ". Hình ảnh ẩn dụ này ta đã bắt gặp trong ca dao, hóa ra, những đau khổ của Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên bi kịch tình yêu tan vỡ ở nàng vẫn đau đớn và nhức nhối hơn bất cứ thiên tình sử nào trước đó. Một phần là bởi Thúy Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân chứ không thể trao tình yêu cho em gái. Nàng đã trao lại cho Vân những kỉ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối quan hệ chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng dành cho người chị chữ "tình", và cô em chữ "duyên"
Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa
Kiều mong muốn thông qua những kỉ vật ,nàng có thể hiện diện trở về trong tình yêu, trong tâm thức của Kim Trọng : "Mất người còn chút của tin", nhưng có nghĩa gì đâu khi "chút của tin " còn mà người đã mất, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử : "Thấy hiu hiu gió thi hay chị về ". Nhưng nàng ý thức được rằng đó là cái chết oan nghiệt : "Rảy xin chén nước cho người thác oan ". Trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa, còn trong Truyện Kiều giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ, luôn luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương : "Dạ đài cách mặt khuất lời " Sau này, trong màn "Tái hồi Kim Trọng " sự gặp mặt của Kim – Kiều cũng không còn là sự gặp lại của tình yêu, vì "sự đời đã tắt lửa lòng " "đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì ".
Thông qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách Thúy Kiều cũng như bi kịch của nàng trong đoạn trích : "Trao duyên", người đọc nhận ra "sức cảm thông lạ lùng" của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
doan man
05/05/2019 10:31:07
Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của những con người hiếu thảo : "Để lời thệ hải minh sơn / Làm con trước phải đền ơn sinh thành." Khi mâu thuẫn giữa hiếu và tình đã được giải quyết, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và nhức nhối hơn. Đoạn trích Trao duyên đã khắc họa sâu sắc bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến chúng ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.
Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với chính mình, với ngọn đèn in bóng đau khổ đã cạn dần với chiếc khăn thấm lệ đã đẫm nước mắt : "Dẫu chong trắng địa, lệ tràn thấm khăn". Điều gì đã khiến nàng "ngồi nhẫn tàn canh". Trong tâm trạng "bàn hoàn" đến vậy ? Chỉ đến khi Thúy Vân "ghé đến ân cần hỏi han" Kiều mới thổ lộ tâm sự sâu kín của nàng. Người con gái tài sắc ấy không chỉ có lòng hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu, nàng là con người thiết tha, sâu nặng, vị tha đến quên mình. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn ,nhân cách của Thúy Kiều. Số phận nàng ngày mai không biết sẽ ra sao nơi đất khách quê người, nhưng hiện tại trong giờ phút này, Kiều một lòng một dạ hướng về người yêu. Điều này được thể hiện rõ qua lời khẩn cầu thiết tha đối với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cái sâu sắc nước đời của Tố Như thể hiện ở việc lựa chọn từ ngữ diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong những từ biểu đạt sự nhờ vả : nhờ, mượn , phiền,... Nguyễn Du chọn từ cậy, vì chỉ từ này mới hàm chứa hai nội dung : nhờ và tin. "Chịu lời"chứ không phải nhân lời vì nhận lời là sự tự nguyện của Vân. Song việc Kiều sắp nhờ cậy em gái là một sự nài nỉ, bắt buộc , không nhận không được, là đưa cả chính nàng và Vân vào hoàn cảnh khó xử. Đó là việc Vân thay Kiều trả "nghĩa" cho Kim Trọng : xót tình máu mủ thay lời nước non ". Trong quan niệm của người trung đại tình thường gắn với nghĩa. Cả ba người trong cuộc đều coi viẹc trả nghĩa này là hợp lí. Nhưng cho dù đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của Vân : "Keo loan khắp mối tơ thừa mặc em". Thúy Kiều vẫn đưa ra những lí lẽ để thuyết phục em gái. Chính những lí lẽ ấy càng thể hiện rõ tình yêu sâu nặng Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, càng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Nói với em, thuyết phục em mà Kiều như sống lại những kí ức tình yêu với Kim Trọng : "Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề " ; trao kỉ vật tình yêu cho Vân : chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,...mà những mong thông qua đó, nàng có thể hiện diện trong tình yêu, trong nỗi niềm với Kim Trọng.
Song càng nặng tình với chàng Kim bao nhiêu, Kiều càng rơi vào bi kịch khổ đau bấy nhiêu. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ : "Giữa đường đứt gánh tương tư ". Hình ảnh ẩn dụ này ta đã bắt gặp trong ca dao, hóa ra, những đau khổ của Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên bi kịch tình yêu tan vỡ ở nàng vẫn đau đớn và nhức nhối hơn bất cứ thiên tình sử nào trước đó. Một phần là bởi Thúy Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân chứ không thể trao tình yêu cho em gái. Nàng đã trao lại cho Vân những kỉ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối quan hệ chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng dành cho người chị chữ "tình", và cô em chữ "duyên"
Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa
Kiều mong muốn thông qua những kỉ vật ,nàng có thể hiện diện trở về trong tình yêu, trong tâm thức của Kim Trọng : "Mất người còn chút của tin", nhưng có nghĩa gì đâu khi "chút của tin " còn mà người đã mất, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử : "Thấy hiu hiu gió thi hay chị về ". Nhưng nàng ý thức được rằng đó là cái chết oan nghiệt : "Rảy xin chén nước cho người thác oan ". Trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa, còn trong Truyện Kiều giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ, luôn luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương : "Dạ đài cách mặt khuất lời " Sau này, trong màn "Tái hồi Kim Trọng " sự gặp mặt của Kim – Kiều cũng không còn là sự gặp lại của tình yêu, vì "sự đời đã tắt lửa lòng " "đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì ".
Thông qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách Thúy Kiều cũng như bi kịch của nàng trong đoạn trích : "Trao duyên", người đọc nhận ra "sức cảm thông lạ lùng" của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người.
1
0
doan man
05/05/2019 10:35:53
Kiều là một cô gái xinh đẹp mặn mà sắc sảo thế nhưng chính cái xã hội đen tối phong kiến kia đã làm cho Kiều có cuộc đời gian truân sóng gió. Có thể nói nhà thơ Nguyễn Du thông cảm sâu sắc với số phận ấy lắm thì mới có thể kể chi tiết về cuộc đời của người con gái xinh đẹp tài năng ấy được. Trước khi Kiều trở thành món hàng của phường buôn thịt bán người. Kiều đã nhớ đến người yêu của mình là Kim Trọng và nhờ Thúy Vân đền đáp nghĩa tình với chàng Kim thay mình. Đoạn trích trao duyên đã thể hiện tâm trạng của Kiều khi quyết định trao duyên cho em.
Duyên là một thứ trời xe, trời định, những người yêu nhau ắt hẳn được xe duyên. Thế mà ở đây Kiều tự thay trời trao duyên của bản thân mình cho em thì có thể được không?. Mà duyên thì là yêu nhau mới có huống chi Thúy Vân cùng chàng Kim có yêu nhau đâu. Mặt khác trong sâu thẳm trái tim của Kiều thì việc trao duyên kia không hề dễ, phải trao đi người mà mình yêu thương thì làm sao có thể vui được. Tuy nhiên thì ở đây Kiều vẫn phải tước quyền của ông tơ bà nguyệt, bỏ qua những cảm xúc của bản thân mình để quyết định trao duyên cho em.
Trước hết là mười bốn câu thơ đầu nói lên việc Thúy Kiều quyết định trao duyên cho em mình là Thúy Vân.
Thứ nhất là Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình. Nỗi bất hạnh ấy chỉ có Thúy Vân mới thay thế được Kiều cũng chỉ có Thúy Vân mới giúp Kiều an tâm về chuyện chàng Kim được:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Tác giả dùng từ thật hay khi nói đên việc trao duyên của nàng Kiều cho Thúy Vân. Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”. Đó chính là thái độ của người dưới dành cho người trên nhưng ở đây thì lại là chị dành cho em. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.
Trước sự cậy nhờ ấy để thêm phần thuyết phục Vân đồng ý thì Kiều đã tâm sự với em về những nỗi tơ vương sầu muộn đang bủa giăng trong lòng nàng. Và chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp đỡ Kiều chứ không có ai khác cả:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Nàng ngậm ngùi mà rằng nàng đã chót thề nguyền cùng người con trai tên Kim Trọng ấy mà giờ đây tình yêu vừa mới chớm đến lại đứt gánh tương tư giữa đường. Còn tại sao đứt gánh thì có lẽ Vân cũng hiểu. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Có thể nói để cất lên những tiếng cậy nhờ kia thì quả thật Kiều cũng đau đớn lắm. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
Tiếp đến Kiều thể hiện hoàn cảnh của bản thân mình và cuộc sống của Vân để làm cho lời cậy nhờ kia nặng hơn khiến cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Khi cậy nhờ em xong thi Kiều lại quay về cảm giác một mình và cái sự một mình ấy đã khiến cho nàng nghĩ đến những truyện trước đây, tâm trạng của nàng bắt đầu được bộc lộ rõ ràng hơn.
Thứ nhất là Kiều mong muốn trong tuyệt vọng quay về với người yêu của mình:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Thôi thì nàng quyết định giữ cái duyên còn vật kia thì thành của chung. Mai này khi Vân và Kim Trọng có nên duyên vợ chồng thì cũng mong hãy nhớ đến kiều. Rồi là phím đàn với mảnh hương thề nguyền ngày nào cũng là những kỉ vật tình yêu của Kiều và kim Trọng. Thế nhưng Nguyễn Du không để những kỉ vật ấy cùng một câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.
Những tưởng Thúy Kiều trao duyên xong sẽ cảm thấy thanh thản phần nào những trái lại dây phút kết thúc sự trao duyên ấy lại là dây phút Kiều đau nhất có lẽ trong sâu thẳm trái tim Kiều một khi đã trao duyên thì tức không phải của mình nữa. Tình yêu bấy lâu nay bỗng chốc không phải là của mình nữa. Kiều đau như chết đi lặng trong sự đau đớn đang dày xé con tim mình:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Kiều nghĩ đến cái chết và Kiều ngẫm rằng kể cả khi nàng chết đi thì những lời thề kia cũng không thể nào quên được. và sụ bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau khi Vân Trọng nên duyên thì cũng đừng quên kiều. Nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Nàng mượn cơn gió kia để đưa hồn mình về thăm Vân Trọng. lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con dường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào.
Như vậy qua bài thơ ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái mình. Cái xã hội phong kiến kia đã khiến cho chữ tình chữ hiếu bị đặt lên bàn cân và buộc người con gái hiếu thảo kia phải lựa chọn. Mà vốn dĩ chữ hiếu và chữ tình không thể nào đem ra cân được. Chữ hiếu làm tròn thì chữ tình kia lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính bởi lẽ ấy mà Kiều cảm thấy rất đau đớn thậm chí cô đã nghĩ đến cái chết.
1
0
doan man
05/05/2019 10:38:10
2.
Khi nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, thì ta không thể nào không nhắc đến “Truyện Kiều”. Đây là một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, và đề cao giá trị con người khi lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Và đoạn trích “Chí khí anh hùng” trích trong “Truyện Kiều”, thì Nguyễn Du đã dành những lời thơ của mình để nói về Từ Hải là một người anh hùng rất lí tưởng, và có những phẩm chất cao đẹp, phi thường.
Trong đoạn trích truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, còn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, thì hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, và phi thường. vì vậy hình tượng này được coi là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ, và là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du.
Sau khi thuý Kiều mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Thì giữa lúc ấy, Từ Hải đã xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. thế là tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất được ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng để gây dựng sự nghiệp của mình thông qua cấu thơ.
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng với chí lớn và khát khao công danh sự nghiệp lớn của Từ Hải thoắt đã “động lòng bốn phương” ở đây là hình ảnh tượng trưng, với ước lệ cho chí nguyện lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. còn hình ảnh “trời bể mênh mang” cũng mang ý nghĩa tương tự như thế. Và chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì đó cũng không đủ sức để ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, thì Nguyễn Du chỉ dành duy nhất một từ “trượng phu” cho Từ Hải nhằm để khẳng định một chí khí lớn ở chàng. Còn hình ảnh trong câu thơ với thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong đây là sự diễn tả một phong thái ung dung của người “trượng phu” trên con đường gây dựng sự nghiệp.
Còn đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ là một người chồng mà còn là một vị ân nhân có ơn vô cùng to lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước sự quyết tâm và sự ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, thì Thúy Kiều đã xin đi theo để là người chăm sóc, và nâng khăn sửa túi cho chàng.
 
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Nàng xin đi theo chàng với ý định là để làm trọn chữ “tòng” vì theo nàng Thuý Kiều “xuất giá tòng phu” lấy chồng thì phải theo chồng, và nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện. Nhưng lời Từ Hải đã quyết, thì như để làm an lòng Thúy Kiều:
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, thì Từ Hải đã trách Kiều: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”’, đó cũng như là một lời khuyên Kiều đừng xem nặng vấn đề “lấy chồng là phải theo chồng”, mà hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao của chồng. Với một quyết tâm, và chí khí lớn lao, Từ Hải nói như lời hứa hẹn sẽ gây dựng được một cơ đồ to lớn, để nắm chắc trong tay “mười vạn tinh binh” và chàng sẽ trở về để đón Kiều trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời” của chàng. Và đến lúc thành công quay trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ “rước nàng nghi gia”, nhằm đem lại địa vị và danh phận cho người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. thế là những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn biệt Thuý Kiều càng làm rõ “chí khí anh hùng” của nhân vật này, thay vì những lời nói nhằm để thể hiện sự bịn rịn, sự quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, và sự khẳng định nhất định sẽ thành công của chàng.
Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ “càng thêm bận” nhưng sâu thẳm trong chàng là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu cực khổ, nay đây mai đó và “bốn bể không nhà”:
Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Vì thế chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều nên ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang.
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì
Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ là những lời chia tay được thay bằng những lời hứa hẹn vào một ngày chiến thắng không xa, và sự quyến luyến được thay bằng một quyết tâm cho tương lai.
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi
Chàng dứt khoát ra đi với sự một quyết tâm sắt đá như cánh chim, bằng khi đã cất cánh tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ và nó cũng như Từ Hải khi đã chiến thắng, và thành công thì mới quay trở về.
Vì vậy với đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. và có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật của mình được thể hiện ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
05/05/2019 10:50:26
1.

Đoạn trích Trao duyên có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tác phẩm Truyện Kiều, nó là bản lề khép mở giữa hai trang cuộc đời Thúy Kiều: phía trước là cuộc sống yên ấm, hạnh phúc và phía sau là mười lăm năm lưu lạc, đày ải. Qua đoạn trích ta không chỉ thấy được số phận bất hạnh của nàng mà còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Thúy Kiều.

Trước hết nàng là người con rất mực có hiếu với cha mẹ. Trước gia biến của gia đình, đó cũng là lúc tình cảm của nàng và Kim Trọng ở giai đoạn ngọt ngào đẹp đẽ nhất nhưng nàng đã dứt áo, quyết tâm bỏ lại chữ tình để đền ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ:

Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

Trước mẫu thuẫn giữa tình và hiếu, dù đau đớn, nhưng Kiều đã giải quyết mâu thuẫn này hết sức dứt khoát và có phần thanh thản. Nàng đã bán mình chuộc cha và em, để đảm bảo gia đình có cuộc sống bình yên, còn bản thân sẵn sàng hi sinh hạnh phúc, sống cuộc đời lưu lạc suốt mười lăm năm. Qua những hành động đó cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều với cha mẹ, nàng là người sống có trách nhiệm với gia đình.

Không chỉ vậy, đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp khác của Thúy Kiều đó là con người trọng tình nghĩa, hết mực thủy chung và sâu sắc trọng tình. Bởi là người trọng tình nghĩa nên khi phải bỏ lại chàng Kim đi theo Mã Giám Sinh tâm trạng Kiều vô cùng dằn vặt, đau đớn bởi mình là kẻ phụ bạc chàng Kim. Nhưng chỉ khi người em gái Thúy Vân đến hỏi han nàng mới bày tỏ nỗi niềm và nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng giúp mình:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Câu thơ của Kiều vô cùng tha thiết, khẩn khoản, đặt tất cả niềm tin, niềm hi vọng vào Thúy Vân. Các từ cậy, nhờ, chịu đã cho thấy thái độ chân thành, tha thiết kết hợp với hành động lạy, thưa dường như đã đặt Vân vào tình thế buộc phải nhận lời trả nghĩa cho Kim Trọng của chị. Nhưng đồng thời ta cũng cần thấy, những hành động tha thiết, khẩn khoản của Kiều dành cho em là bởi cô hiểu việc mình nhờ em là điều vô cùng khó xử cho em, bởi Thúy Vân vốn không có tình cảm với Kim Trọng, dùng những từ ngữ đó khiến cho Thúy Vân vô cùng cảm động và cảm thương cho số phận mối tình của chị.

Kiều không nói quá nhiều về hoàn cảnh của bản thân, bởi chuyện ấy hơn ai hết Vân là người hiểu rõ nhất. Bởi vậy, Thúy Kiều sau khi nói về nỗi bất hạnh của mình, nàng tiếp tục thuyết phục Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng: “Ngày xuân em hãy con dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non/ Chị dù thịt nát xương mòn/ Ngập cười chín suối hãy còn thơm lây”. Nàng sử dụng hàng loạt các từ ngữ: tình máy mủ, thịt nát xương mòn, lời nước non có tác dụng lớn trong việc thuyết phục Thúy Vân. Nàng ràng buộc Vân bằng tình ruột thịt, máu mủ lại cầu khẩn em cho mình chút vui, chút ơn vì đức hi sinh cao cả của em. Lời thơ vừa thuyết phục, vừa cầu khẩn, lại vừa ràng buộc đã giúp Kiều diễn đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Nhưng khi nguyện ước của nàng đạt được thì đó cũng là lúc bi kịch tình yêu của nàng bị đẩy lên đến đỉnh điểm. Nàng chỉ trao duyên cho em với Kim Trọng còn tình yêu, kỉ niệm nàng nào dễ dàng trao gửi như vậy. Tâm trạng nàng bị giằng xé giữa lí trí và trái tim. Thúy Kiều tìm về cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật và linh hồn.

Nàng trao cho Vân kỉ vật tình yêu của mình và Kim Trọng: chiếc vành, bức tờ mây, nhưng đồng thời nàng cũng mong bằng những kỉ vật ấy nàng vẫn sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật đẹp đẽ ấy gắn liền với những ngày tháng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời nàng, đó là những kỉ niệm thiêng liêng, kỉ niệm riêng của nàng và Kim Trọng, Kiều không bao giờ muốn trao nó cho một ai khác dù đó có là em của mình. Từ “của chung” gợi lên bao đau đớn, xót xa: “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Hiện thực tươi đẹp đã trở thành quá khứ, kỉ vật vẫn còn đó nhưng đối với tình yêu Kiều đã không còn hiện diện nữa. “Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất”. Con đường nàng Kiều lựa chọn để trở về tình yêu đã không thể thực hiện được.

Nàng cố chấp tìm đến con đường khác, đó là bằng linh hồn bất tử: “Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Nàng mong khi linh hồn mình trở về sẽ nhận được sự đồng cảm từ người thương mà rưới cho nàng giọt nước thác oan. Nhưng sự trở về ấy chỉ mình nàng hay, người sống đâu biết, bởi vậy sự trở về bằng linh hồn bất tử cũng chỉ là sự trở về không có gặp gỡ, rơi vào ngõ cụt. Kiều trở về thực tại và càng đau đớn xót xa hơn. Nàng ý thức sâu sắc về cái thực tại, về hoàn cảnh của bản thân: nước chảy hoa trôi, trâm gãy gương tan, tơ duyên ngắn ngủi, phận bạc như vôi. Càng ý thức rõ bao nhiêu bi kịch của nàng càng bị đẩy lên bấy nhiêu. Nỗi đau đẩy lên đến đỉnh điểm, đang trò chuyện với Thúy Vân nàng đột ngột trò chuyện với Kim Trọng: “Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của em gái, trong một câu thơ tên người nàng yêu thương – Kim Trọng được nhắc đến hai lần, kèm theo những ngữ điệu cảm thán đau đớn tuyệt vọng: Ơi, hỡi kết hợp với nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc nghẹn ngào của nàng Kiều.

Đoạn trích Trao duyên đã cho thấy tấm lòng bao dung độ lượng, tình yêu thương cao cả Thúy Kiều dành cho mọi người. Trong hoàn cảnh bản thân vô cùng bất hạnh nhưng nàng không hề toan tính cho mình, chỉ lo nghĩ cho người khác. Đoạn trích đã một lần nữa khẳng định nhân cách đẹp đẽ của Thúy Kiều.

0
0
Quỳnh Anh Đỗ
05/05/2019 10:53:13
2.
Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du,giấc mơ anh hùng,giấc mơ tự do và công lý.Cho nên Từ Hải là một người chí khí,một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi,Từ Hải đã làm nên những trang sôi động nhất,hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân Thanh”. Đoạn trích “Chí Khí Anh Hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét chí khí anh hùng của Từ Hải.
Kiều bị lừa vào lầu xanh lầnthứ 2, tâm trạng nàng vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải đột ngột xuất hiện, đã xem Kiều như tri kỉ và chuộc nàng thoát khỏi lầu xanh. Cả 2 đều là những con người thuộc tầng lớp thấp kém (một gái lầuxanh, một tướng giặc) bị xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ ruồng rẫy, coi thường, và họ đã đến với nhau trong 1 tình cảm gắn bó của đôi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo của Kiều và ngược lại Kiều nhận ra ở Từ Hải có chí khí anh hùng hiếm có trong thiên hạ, đồng thời cũng là người duy nhất có thể giải thoát cho nàng.Nhưng dù yêu thương,trân trọng Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc anh hùng cái thế.Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự anh hùng.Tính cách và chí khí của Từ Hải được biểu hiện qua cách sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt,ngôn ngữ bình dân,dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố,điển tích.Đặc biệt nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hóa.Mọi ngôn từ,hình ảnh và cách miêu tả Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.

“Nửa năm” là khoảng thời gian chung sống của Từ Hải và Kiều,thời gian chưa đủ dài để dập tắt hương lửa nồng nàn của “trai anh hùng,cái thuyền quyên”.Vậy nhưng,Từ Hải vội dứt áo ra đi,Từ không quên mình là một tráng sĩ.Trong xã hội phong kiến,đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao rộng.Tác giả dùng từ “trượng phu” đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và dùng cho nhân vật Từ Hải.”Trượng phu” nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn.Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảng khắc bất ngờ.Đó là cách xử sự bất thường,dứt khoát của Từ Hải.Nếu là người không có chí khí,không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác.Nhưng Từ Hải thì khác,ngay khi đang hạnh phúc,chàng “thoắt” nhờ đến mục đích,chí hướng của đời mình .Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải,hơn nữa,Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình .Cụm từ “động lòng bốn phương” theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương”cho Từ Hải “không phải người một nhà,một họ,một xóm,một làng mà là người của trời đất,của bốn phương”(Hoài Thanh).Chính vì thế,chàng hướng về “trời bể mênh mang”,với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng:

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.

Không gian trời bể mênh mang,con đường thẳng đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hai.Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”rồi mới để cho Từ Hải và Thúy Kiểu nói lời tiễn biệt.Liệu có gì phi lôgic không?Không,vì hai chữ “thẳng dong” có người giải thích là “vội lời”,chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói lời tiễn biệt.Ta có thể hình dung,Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thúy Kiều.Lời Từ Hải nói với Thúy Kiều lúc chia tay thể hiện rõ rính cách nhân vật.Thứ nhất,Từ Hải là người có chí khí phi thường,khi chia tay thấy Kiểu nói:

Nàng rằng : “Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ Hải đã đáp lại rằng:
Từ rằng : ”Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.

Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :

Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì !

Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

Hai chữ “dứt áo” thể hiện phong cách mạnh mẽ,phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.Hình ảnh “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”là một hình ảnh so sánh đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao,bay xa ngoài biển lớn.Không chỉ thể trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thỏa chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá trong giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”.Chia li và hội ngộ,hội ngộ và chia li,hai sự kiện trái ngược và nối tiếp chia cái đời thường của mỗi người ra thành những chặng đường giàu ý nghĩa hơn.Phải,nếu không có chia li và hội ngộ,cuộc sống chỉ là một dòng chảy đơn điệu và tẻ nhạt.Nếu hội ngộ là sướng vui,hạnh phúc thì chia li là sầu muộn,đau buồn.Có lẽ vì thế mà thơ ca viết về chia li nhiều hơn,thấm thía hơn?Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã ba lần khắc họa những cuộc chia biệt.Đó là Kiều tiễn Kim Trọng về quê hộ tang chú,ở đó có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm.Đó là cuộc chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẻ,hi vọng gặp lại mong manh.Cuộc chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thỏa chí vẫy vùng bốn biển.Do vậy tính chất ba cuộc chia biệt là hoàn toàn khác hẳn nhau.Vậy nhưng,bằng tài hoa của một người nghệ sĩ bậc thầy,Nguyễn du đã khắc họa thành công chân dung nhân vật Từ Hải với những dấu ấn riêng biệt.

Dưới hình thức một cuộc chia li,đoạn trích “Chí khí anh hùng” mang chở khát vọng tự do,công lí của Nguyễn Du.Từ Hải như một con đại bàng vỗ cánh làm xáo động cả đất trời.Chỉ có đôi cánh ấy mới che chở được những nạn nhân sống dưới gần trời tăm tối của thể giới “Truyện Kiều”.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×