Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâ m sự của Hồ Xuân Hương, "Tự Tình" là một
trong những bà i thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thầ m thía của người yêu
đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le, một con người luôn kh ao khát tình
yêu nhưng gặp toà n dang dở bất hạnh. Đó là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một gia i đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỷ XVIII đến n ửa
đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người c hứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng của
không khí sô i s ục của phong trào quầ n chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà
uy nghiêm, thức tỉnh, trắc trở về đời mình, một cuộc đời đầy éo le, bạc phận, lấy chồng hai
lần, hai lầ n là m lẻ và hai lần chồng đều chết sớ m. Đ iều đó, với bà là những biểu hiện cụ t hể,
đầy nước mắt của nỗi đau
"hồng nhan bạc phận"
.
Mở đầu bài thơ Tự t ình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng g à. Đây
là mộ t thứ không g ian, thời g ian nghệ thuật được vận dụng là m cho sự thổ lộ tâm trạng tác
giả:
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn".
"Văng vẳng"
ch ính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái
không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đê m khuya thanh vắng. Câu thứ hai
nhức nhói một tâ m sự:
"Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ "trơ". Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cả m nhận nỗi
buồn hồng nhan. Một nỗi buồn c á thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn
cuộc đời: "nước non". Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận c ủa người phụ nữ.
Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi.
"Chén rượu hương đưa"
là một phương
tiện, không ph ải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức.
Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch:
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh"
Câu thơ nữ s ĩ gợi nhớ mộ t câu thơ đầy trầ m tư của Lý Bạch:
"dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu".
Bất lực, câu thơ chyển sang một sự cá m cành si tình. Hồ Xuân Hương nói:
"vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Trong quan điể m t hẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ
nữ. Câu
"vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
vừa là hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm
buồn. Cái buồn của một
"vầng trăng khuyết"
. Đối với thơ xưa cảnh là tình, cảnh trăng khuyết
man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong
"mời trầu"
bà đã ẩn ý như vậy Sang câu 5,6 tứ thơ
như đột ngột chuyển biến. sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khuyết.
Một cảnh thực hoàn toàn:
"xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
Nghệ thuật đả o ngữ và đối tạo nên sự sinh động v à cảnh đầy sức sống. Một sức sống của
bà như vẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của
"bà chúa thơ Nôm"
chứ không
phải của ai khác. Rò ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nh ưng điều đó vẫn không là m suy
giả m chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khát khao với cuộc
đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa
chan sức sống. Đó là lý g iải về n hững phản kháng, đối n ghịch trong b ản chất của bà, t ạo
nên những vần thơ châ m b iến đối lập. Vũ khí ấy h ơn hẳn chén rượu
"say rồi tỉnh"
. Đó là
phương tiệ n kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ nh ư thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiến g thở
dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu kết:
"ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
mảnh tình san sẻ tí con con!"
Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế , mà cuộc đời riêng thì vẫn:
"xuân đi xuân lại lại."
,
điệp từ chỉ cái vòng lu ẩn quẩ n đáng ghét, v ô vị của ngày thán g, cuộc đời. Điều này khiến bà
không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa c ái tuần hoàn thời
gian ấy là một
"mảnh tình"
đang bị an đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời
kia, điều đó như một vết th ương, nhức nhối.
Người t a nói rằng thơ là tâ m trạng, là một b ức thông đ iệp t hẩm mĩ. Đọc "tự t ìn h", ta thấu
hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân c ách luôn khát khao hạnh
phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dang dở, bất hạ nh,
điều đó tạo n ên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có
hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệ m là ở phía xã hộ i p hong kiến, mộ t xã
hội mà hạnh ph úc riêng đã đối lập gay gắt với cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, "tự t ình"
là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bê nh
vực của người phụ nữ, tạo dc sự thấu hiểu , đồng cả m với cảnh ngộ éo le, trắc trở.