Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ sau: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi, Áo anh rách vai, Quần tôi có vài mảnh vá ..... Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"

Cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ sau:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, 
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. 
Áo anh rách vai 
Quần tôi có vài mảnh vá 
Miệng cười buốt giá 
Chân không giày 
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
15.143
20
15
Phương Dung
08/11/2017 23:59:47
Trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam có thể xem là những trang vàng về chặng đường xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta. Có lẽ chính vì vậy mà hình tượng người lính cách mạng đã được khai thác, đào sâu trong nhiều tác phẩm thơ văn qua nhiều thời kì lịch sử khác nhau. Một trong những bài thơ đã xây dựng thành công vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp và tình cảm gắn bó keo sơn của họ đó là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. 
Nhà thơ Chính Hữu bắt đầu hoạt động trong quân đội từ năm 1946 và tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Có lẽ vì vậy mà thơ của ông hầu như chỉ hướng về đề tài người lính và chiến tranh. Thu đông năm 1947, Chính Hữu cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc và không may bị thương. Cảm động trước sự quan tâm chăm sóc của những người đồng chí đồng đội, đầu năm 1948, ông viết bài thơ này để thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của mình.
Mở đầu là bảy câu thơ lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí đồng đội. Trước hết là xuất thân của những người lính:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
“Nước mặn đồng chua” quê anh là một vùng đất ven biển, quanh năm nhiễm mặn nhiễm phèn ; quê tôi “đất cày lên sỏi đá” là vùng đồi núi cằn cỗi, chỉ toàn đá với sỏi. Việc sử dụng hai thành ngữ dân gian trên đã gợi lên cảnh nghèo khó của vùng quê. Nhịp thơ mở đầu chậm rãi, từ tốn như một lời tâm sự bùi ngùi khi nhắc về những làng quê. Lớn lên từ những nơi ấy, “anh” và “tôi” là những người nông dân lam lũ, một nắng hai sương vất vả sớm chiều. Niềm quay trở lại vui được sống trong hòa bình yên ổn chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã xâm lược nước ta, và chiến tranh lại bắt đầu. Họ từ bỏ mọi thứ, vẫy chào quê hương tình nguyện vào chiến trường. Điều gì khiến họ trở nên như vậy? Chính sự nô lệ và cái đói nghèo đã cướp đi cuộc sống và sự tự do của những người nông dân, họ sẵn sàng đứng lên chiến đấu để giành lại miếng cơm manh áo của mình. Đó cũng là lí do để gắn kết những con người từ “xa lạ” bỗng thành “quen nhau”. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm ban đầu của những người lính. Tình cảm ấy như được tô đậm nét hơn khi họ gần gũi, thân thiết với nhau hơn qua từng ngày. Cùng chung lí tưởng chiến đấu, chung một hoàn cảnh xuất thân, chung nhiệm vụ. Và tình đồng chí đồng đội giữa họ như nảy sinh từ những cái chung nhỏ bé đó:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
“Đôi tri kỉ” hiểu bạn như hiểu mình, từ “đôi” thể hiện sự gắn bó mật thiết không thể tách rời được. Để từ đó dòng thơ thứ 7 như một dòng cảm xúc mạnh mẽ tuôn trào
Đồng chí !
Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, vấn vương trong lòng người đọc. Nốt nhạc ấy như một nút thắt của bài thơ: khép lại chặn đường từ những con người xa lạ đến thân quen và mở ra một nguồn xúc cảm mới: tình đồng chí. Tình đồng chí như là một sự kết tinh của tình người và tình bạn, là thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt giữa những người đồng đội luôn kề vai sát cánh bên nhau. Tình đồng chí thể hiện bằng sự thấu hiểu hoàn cảnh, sự cảm thông chia sẻ những tâm tư của nhau
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Đồng chí là những người rời bỏ quê hương, bỏ lại đằng sau những con người thân thương, phải rời xa xóm làng, xa những cánh đồng quê quen thuộc. “Gian nhà không” trống trải gợi lên cái nghèo khó không chỉ của anh lính mà còn là cái nghèo chung của cả một vùng nông thôn buồn tẻ. Vậy mà anh vẫn “mặc kệ” cho “gió lung lay” dẫu biết rằng khi trở về, căn nhà tạm bợ ấy có thể không còn đứng vững. Điều đó thể hiện quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn của những người nông dân mặc áo lính để tìm lại linh hồn cho Tổ quốc Việt Nam. Nhưng đâu đó, trong sâu thẳm hoài niệm của những người lính kia vẫn nằm lòng nỗi nhớ về quê hương
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Trở lại với cuộc sống chiến đấu nơi chiến trường ác liệt, chống chọi với cái nóng lạnh của sốt rét rừng, họ luôn đồng cam cộng khổ, chia sẻ cho nhau những khó khăn, thiếu thốn về vật chất:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Những thiếu thốn nhỏ nhoi đó được diễn tả bằng những từ ngữ vô cùng mộc mạc, giản dị cùng giọng thơ bình thản không chút bận tâm. Không như:
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
trong bài “Ngày về” của nhà thơ. Dường như ở hai câu này, quần áo, giày dép như được lý tưởng hóa lên, đậm chất trữ tình hơn. Vượt qua hoàn cảnh ấy, những người đồng chí vẫn “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đó là cử chỉ thân thương đơn giản nhưng qua nó, họ truyền những hơi ấm tình thương cho nhau, truyền nghị lực chiến đấu cho nhau trong phiên canh gác. Giữa cảnh núi rừng mênh mông heo hút giữa đêm khuya, họ“đứng cạnh bên nhau”, kề vai sát cánh bên nhau “chờ giặc tới” dưới màn sương muối lạnh lẽo cùng nụ cười ngạo nghễ trên môi. Nụ cười “buốt giá” ấy là nụ cười lạc quan chiến thằng, là nụ cười tỏa sáng trong đêm, sưởi ấm tâm hồn những con người anh dũng. Nụ cười ấy còn soi sáng bức tranh vô cùng lãng mạn và độc đáo cuối bài:
Đầu súng trăng treo.
Hình ảnh này vừa gợi lên sự chông chênh giữa khung trời bát ngát, vừa gợi lên sự lãng mạn, bay bổng. Sự hòa quyện giữa hai đối cực: hiện thực và lãng mạn, chiến đấu và trữ tình đã gắn kết ba hình ảnh làm một: người lính, khẩu súng, vầng trăng. Trăng treo đầu súng tạo nên chiều cao, những người lính đứng cạnh nhau tạo nên chiều rộng và ý chí chiến đấu tạo nên chiều sâu. Tất cả đã tạo nên một không gian thi trung hữu họa thật đặc sắc. Từ hình ảnh thực nơi chiến trường, tác giả đã nâng lên thành hình ảnh khái quát mang ý nghĩ tượng trưng cho vẻ đẹp tinh thần của người lính. Súng và trăng – gần và xa – thực tại và mơ mộng. Đó là vẻ đẹp hài hòa của người chiến sĩ – thi sĩ. Súng là biểu tượng của chiến tranh ác liệt. Trăng là vẻ đẹp của hòa bình, tự do. Súng là lí tưởng chiến đấu của người chiến sĩ. Trăng là tâm hồn của người thi sĩ. Súng nơi quân giặc là tang thương đẫm máu. Súng nơi người lính là sự bảo vệ chở che cho vầng trăng hòa bình. Cuộc chiến đấu hôm nay là để cho ánh trăng hòa bình mãi thắp sáng bầu trời khuya trên quê hương người chiến sĩ mai sau. Động từ “treo” với chủ thể “trăng” tạo một hình ảnh vô cùng độc đáo và lí thú. Hình ảnh ấy thật cô đọng, gợi cảm mà sâu sắc, lắng sâu vào tâm hồn người đọc, nó kết thúc bài thơ đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó.
Bài thơ khai thác vẻ đẹp của hình ảnh người nông dân mặc áo lính từ cuộc sống đời thường, ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, chân thực mà giàu sức biểu cảm nhờ thể thơ tự do. Tình cảm gắn bó của những người đồng chí đồng đội đã làm nên một sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, làm nên thắng lợi lịch sử vẻ vang của dân tộc ta là chấn động địa cầu: chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, kết thúc chín năm kháng Pháp ròng rã gian lao. Chính Hữu như đã khắc vào cả một giai đoạn lịch sử một bức tranh bất diệt của những người lính nông dân.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
16
13
Phương Dung
09/11/2017 00:01:38
Đồng chí! Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kì kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài thơ Đồng chí với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến chín năm. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày” ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau, từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ. Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người rất “ xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương cùng chiến đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để đặc tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua” “đất cày lên sỏi đá”. Và họ đã gặp nhau từ “xa lạ”. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là "đôi người xa lệ” Đôi là chỉ hai đối tượng cùng đi vói nhau. “Đôi người xa lạ" nghĩa là hai người cùng đi với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh "những phương trời xa cách, những con người “chẳng hẹn quen nhau”nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”:

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!

Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tả tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lí tưởng cách mạng chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người xa lạ" ấy đã nảy nở một tình cảm mới khi họ cùng chiến đấu cùng một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí” – một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí" , một sự cảm kích về nhiêu đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí”.

Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyên quê nhà. Chuyện “ruộng nương gửi bạn thân cày” “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…". Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc cùng nhau chịu đựng gian khổ “từng cơn ớn lạnh", những lúc “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi". Cuộc sống bộ đội nghèo, vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu "áo anh" có “rách vai", “quần tôi” có “ vài mảnh vá” dẫu trời có “buốt giá” thì miệng vẫn cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách “nắm lấy bàn tay” “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí bằng cách "tay nắm lấy bàn tay” . Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh “anh với tôi'” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tai nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.

Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:

Đêm nay rừmg hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính canh gác trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh “Đầu súng trăng treor” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nẩy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Toàn bộ bài thơ bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội, ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống đời thường ở những người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.

Đồng chí! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đểu lắng lại những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp trong những lời thơ cùa Chính Hữu.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×