Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Chứng minh các văn bản nghị luận trung đại thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc

2 trả lời
Hỏi chi tiết
2.174
5
2
Hoàng Hà Chi
24/04/2019 19:38:04
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, trên nền trời văn chương yêu nước Việt Nam nổi bật những áng văn chính luận xuất sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta”.
“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả khám phá từ khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị, tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã được khám phá và thực hiện từ góc độ mong muốn thái bình thịnh trị, đất nước phải đi lên theo một tầm vóc mới mẻ, lớn lao.
Người xưa thường “tuân theo mệnh trời”, những cái gì thuận theo trời định ắt sẽ thành công, điều đó được coi như cái tất yếu mà tạo hóa đã định. Kế tục truyền thoongd và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…
Đau xót khi nghĩ về “số phận ngắn ngủi” của các triều đại Đinh, Lê trước, Lí Công Uẩn cảm thấy việc dời đô là một việc hết sức cấp thiết “không thể không chuyển dời”.
Đại La là kinh đô cũ của Cao Vương với vẻ đẹp và thuận lợi muôn mặt bởi lẽ là “trung tâm trời đất”, “đúng ngôi nam bắc đông tây”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, “tiện hướng nhìn sông dựa núi”, “muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”… Đại La xứng đáng là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đó là tầm nhìn chiến lược của Lí Công Uẩn về Đại La, một cái nhìn toàn diện, sắc sảo và sáng suốt, mong muốn về một đất nước ngày mai tươi đẹp, thái bình giàu mạnh, phát triển vững bền.
Mặc dù vậy, để thống nhất trên dưới chung lòng cùng một ý kiến, Lí Công Uẩn đã bàn bạc với triều thần chỉ với một câu hỏi tu từ bỏ ngõ ở phần kết: “Các khanh thấy thế nào?”. Lời lẽ ấy xuất phát từ tình cảm máu mủ ruột thịt dân tộc Đại Việt, từ tinh thần yêu nước sâu nặng lớn lao, khao khát thoát ra ngoài vỏ bọc yếu kém so với các cường quốc khác.
“Chiếu dời đô” của Lí Công Uần không chỉ là một văn kiện lịch sử mà còn là áng văn nghị luận đặc sắc. Kết hợp giữa văn xuôi và văn biền ngẫu đã tạo nên một bài chiếu với trình tự lập luận chặt chẽ, ngôn từ và câu văn nghị luận ngắn gọn, súc tích; dẫn chứng cụ thể; đồng thời cho thấy sự thể hiện chân thành tình cảm của người viết, mong muốn sự nghiệp dời đô hoàn thành và hưng thịnh.
Sự nghiệp dời đô và bài chiếu ấy đã đi vào lịch sử văn chương như một sự kế tục và khơi nguồn cho con sông chứa đnựg phù sa yêu nước thêm dày thêm đỏ nặng. Dù thời bình hay thời chiến, tinh thần yêu nước ấy luôn cuộn lên những lớp sóng mạnh mẽ cuốn phăng đi những trở ngại trên con đường dựng nước và giữ nước của dân tộc, đưa toàn thể lớp người của dân tộc kết thành một cơn bão tinh thần giữa biển khơi vô tận, ghi nên những trang sử rực rỡ hào khí Đông A – một trong những trang sử dành riêng cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng áng văn chương hào hùng bất hủ “Hịch tướng sĩ”.
Với “Hịch tướng sĩ”, qua thời kì dựng nước của Li Thái Tổ, tới thời đại giữ nước này, mặc dù trong loạn lạc chiến tranh nhưng tinh thần yêu nước vẫn luôn được nung nấu với quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Ở khía cạnh này, nhận thức và sự khám phá về sự yêu nước không còn là phát triển và giàu mạnh nữa, nhận thức về tinh thần yêu nước bấy giờ là mong muốn đánh đuổi giặc ngoại xâm đang lăm le bờ cõi, là mong muốn nền hòa bình độc lập tự do.
Để thức tỉnh lòng yêu nước các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nêu gương các trung thần nghĩa sĩ đã xả thân cứu nước cứu chúa phương Bắc để kích thích tinh thần trung dũng của các tì tướng nước nhà. Bằng cái nhìn sáng suốt và cảnh giác, Trần Quốc Tuấn đã vạch trần bộ mặt tham lam, dã tâm tàn bạo của quân xâm lược qua tên sứ giặc “đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Cậy thế nước lớn quân đông, chúng ra sức hoành hành, vừa “bắt nạt” vừa “sỉ mắng” triều đình vua quan nhà Trần. Xúc phạm đến quốc thể và tự tôn dân tộc Việt Nam là tự đào hố chôn mình bởi những hành động đó là nguyên nhân để đốt cháy lòng căm thì và khinh bỉ đối với sứ giặc Mông –Nguyên, khơi gợi ý thức dân tộc đối với tướng sĩ Đại Việt.
Bởi “ ta cùng các ngươi” “sinh phải thời loạn lạc” – “lớn gặp buổi gian nan” đã gắn kết chủ soái và tướng sĩ trong một sứ mệnh thiêng liêng cao cả: chống giặc Mông –Nguyên. Bộc lộ tất thảy nỗi lòng căm thù giặc sâu sắc cùng nỗi nhục mất nước, tác giả đã khẳng định “không thế khoan nhượng”. Với lũ giặc Nguyên – Mông thì quyết không thể dung tha! Vì “chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máy quân thù” nên “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa”. Trong cuộc chiến này, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tinh thần vì tổ quốc muôn ngàn kính yêu được Trần Quốc Tuấn nhắc nhở và nhấn mạnh ở chỗ quyết tâm và hành động “ huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”… Ở bất kì khía cạnh nào, biểu hiện nào, tác giả cũng biểu lộ một chí khí anh hùng, lẫm liệt và quyết chiến quyết thắng! Vì sự sống còn và niềm vinh quang của dân tộc mà quyết tâm đánh thắng giặc Mông – Nguyên để tông miếu muôn đời được tế lễ, để tiếng thơm lưu truyền hàng ngàn năm.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
doan man
24/04/2019 19:39:39
Văn học là dòng chảy không ngừng của thời gian, các nhà văn nhà thơ là thư kí trung thành của thời đại. Ta bắt gặp được những bản tuyên ngôn độc lập với giọng đọc hào sảng của Nước Việt Nam qua “Nam quốc sơn hà” hay một bài hịch vang núi sông ngỡ còn đâu đây trong “Hịch tướng sĩ” của Trần quốc Tuấn…và đó chính là những biểu hiện đẹp về trào lưu chủ nghĩa yêu nước tô đậm trong nền văn học trung đại.
Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, những chiến tích oanh liệt của các vua hùng, tướng sĩ được tạc trên sổ vàng của lịch sử. Văn học phản ánh chân thực và rõ nét qua các tác phẩm văn chương.
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, nước ta tồn tại dưới các triều đại phong kiến từ hưng thịnh đến suy vong. Văn học trung đại với nhiều nguồn cảm hứng khác nhau, trong đó yêu nước và nhân đạo là hai trong bốn nguồn cảm hứng chi phố ngòi bút của nhà thơ, nhà văn. Nhưng chủ nghĩa yêu nước tồn tại với những biểu hiện rõ nét, dưới nhiều cung bậc, màu vẻ khác nhau.
Yêu nước là niềm tự hào, tự tôn dân tộc, là lòng căm thù giặc sâu sắc với ý chí quyết tâm dẹp loạn, giành độc lập tự do; là lòng trung quân ái quốc; tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc; tố cáo tội ác của giặc; khát vọng hòa bình . Ngoài ra còn thể hiện ở nhiều cung bậc tâm trạng: buồn vui, sung sướng, hả hê, hay tủi nhục, hân hoan…
Có thể nói, trong những thế kỉ đầu, văn học viết về những chiến công anh dũng, lấp lánh ánh hào quang của tinh thần yêu nước.
Mở đầu với “Bản tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của nước Đại việt với lòng tự hào, tự tôn dân tộc của Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ”
Với giọng đọc hùng hồn, vang dội, bài thơ là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, không tên giặc ngoại xâm nào có thể “xâm phạm” đến đây và lời tuyên ngôn rõ ràng, nhất quyết về tội ác của giặc sẽ phải chịu:
“Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ”
Yêu nước còn là tấm lòng trung quân ái quốc, luôn xưng đế:
“Như nước Đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Bình ngô đại cáo – Nguyễn trãi)
Nước đại việt với những phong tục, tập quán riêng, trải qua bao đời nay nó đã trở thành “nền văn hiến” không thể nào xóa bỏ.
Nhưng trong các triều đại phong kiens, nước ta luôn phải chống giặc ngoại xâm thì không thể nào không có một trái tim hừng hực cháy bỏng về lòng căm thù giặc và một ý chí quyết tâm sắt đá đánh đuổi giặc như trong “ Hịch tướng sĩ” vang núi sông của Trần quốc Tuấn.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức một nỗi chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng thấy cam lòng…”.
Đó là tâm trạng căm phẫn tột cùng và một hào khí “sát thát” Đông A của thời Trần. Ông căm ghét lũ giặc đi nghênh ngang ngoài đường trên đất Nam, và coi đó như lũ cú, lũ hổ đói… và có lẽ bởi thế, bằng các động từ mạnh: xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu… đã lột tả hết được tâm trạng lên đến đỉnh cao của Trần quốc Tuấn. Lời thủ thỉ của tướng sĩ khiến bao an hem trong đội phải dấy lên những cảm xúc để họ một ngày nào đó sẽ “ nhà nhà giỏi như Nguyễn Huệ, …bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửu sông…”tất cả đều xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc.
Đến với “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, một áng “ thiên cổ hùng văn” như một bản ngôn dân quyền của nước đại Việt ta. Một lời tố cáo tội ác của giặc như khiến lòng độc giả cũng phải hòa mình vào thời ấy.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Lũ giặc gây bao tội ác như thế, làm sao ta không căm tức, không muốn diết giặc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tất cả vì dân, “ vì nước quên thân, vì dân diệt bạo”.
Ta còn bắt gặp một ông vua chúa Trịnh ăn chơi xa đọa, không chăm lo cho cuộc sống của người dân, bỏ bê việc triều chính. Không chỉ có vậy, mà đến các tầng lớp quan lại cũng là lũ “đầu trâu mặt ngựa” nửa đêm đi lùng tìm những cây quí của nhà dân rồi đổ tội oan cho dân, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.
Bên cạnh đó, tình yêu đất nước còn thể hiện ở khát vọng hòa bình của mọi người dân.
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”
(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)
Đó là những chiến công hiển hách oanh liệt để làm nên chiến thắng thanh bình như ngày hôm nay. Khát vọng hòa bình của người dân được đẩy thêm một nấc. Một lời tâm sự của Nguyễn Trãi mang bao khát vọng:
“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch thù”
Từ đó thúc đẩy ý chí của mọi người để vươn lên tới hòa bình, hạnh phúc, ấm no. Cảm xúc trước cuộc sống thanh bình của người dân:
“Giặc tan muôn thủa thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”
Vì non sông gấm vóc, nước Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả giành lại đất nước. Ngoài ra, chủ nghĩa yêu nước còn là tình yêu thiên nhiên sâu đậm. Đọc thơ Nguyễn Trãi, thiên nhiên như ùa về trong ta với bao cảnh đẹp:
“Một mình nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng quốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”
Thì ra Nguyễn Trãi khép phòng văn chứ ông không khép lòng mình, mà ông luôn mở rộng lòng mình đến với thiên nhiên tươi đẹp. Sắc tím của hoa xoan đã trở thành ấn tượng đối với thi nhân. Ông yêu thiên nhiên bởi nó không có cái nham hiểm của lòng người. Màn mưa bụi khép lại khiến lòng ta xao xuyến, nhớ mãi. Hay đến với thứ cỏ xanh non sau cơn mưa còn vương như những làn khói mờ mờ, hư thực:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Không gian đưa đến với màu xanh của cỏ, màu trắng của khói sớm, và hơn thế là sự tĩnh lặng của một miền quê xa vắng ngỡ còn đâu đây. Ta bắt gặp tiết trời thu xanh ngắt cugnf ánh trăng mờ ảo huyền diệu trong “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu”
Thu của làng cảnh Việt Nam thật mộc mạc, bình dị mà thân thuộc, gần gũi. Bởi thế tôi càng yêu sao quê hương, đất nước mình hơn.
Con người Việt Nam đẹp như thế, họ có tình yêu thương sâu sắc khiến ta thêm tự hào và trân trọng biết bao. Bởi vậy, chủ nghĩa yêu nước như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chặng đường dài rộng của nền văn học nước nhà. Các nghệ sĩ nối tiếp nhau viết về chủ nghĩa đó bằng cả niềm tin và tình yêu vô bờ đối với con người và tình quê chan chứa. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn mỗi người bởi lẽ “với quá khứ, ta xây dựng được tương lai”. Càng đọc ta càng thấm thía trong từng trang viết về một thời đại vang danh núi sông bởi “ Mỗi con người là một bài thơ đẹp”.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư