Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Có ý kiến cho rằng: Cuộc đời và số phận người phụ nữ luôn là "tiếng kêu đau đớn" của các nhà văn Trung đại. Bằng hiểu biết của em về "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

có ý kiến cho rằng: Cuộc đời và số phận người phụ nữ luôn là "tiếng kêu đau đớn" của các nhà văn Trung đại.Bằng hiểu biết của em về "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
6 trả lời
Hỏi chi tiết
749
2
0
Kudo
12/07/2019 14:02:21
Vũ trụ có nhiều kì quan nhưng kì quan tuyệt phẩm, huyền bí nhất có lẽ là phụ nữ. Trong xã hội ngày nay, vai trò và hình ảnh của người phụ nữ được tôn vinh hơn hẳn những thời kì lịch sử trước, những thời kì nước ta đang đắm chìm trong đêm đen loạn lạc của chế độ phong kiến. Thương thay, số phận của người phụ nữ phong kiến thật chua xót bất hạnh. Bằng sự đồng cảm và cảm thông ấy các nhà thơ nhà văn cùng thời đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ phong kiến, đại diện cho cái đẹp hoàn mĩ. Đó là hai tác phẩm tiêu biểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Mặc dù hai nàng Kiều, Vũ Nương tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời hai nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt, bi kịch.
"Chuyện người con gái Nam Xương" xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương - người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Sau một thời gian, chàng Trương Sinh mới biết được nỗi oan của vợ và lập đàng giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện về giữa bến Hoàng Giang lúc ẩn, lúc hiện rồi biến mất.
Truyện Kiều nói về nàng Kiều là người con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống cùng cha mẹ và hai em, là người tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân Kiều gặp Kim Trọng 2 người nảy sinh tình cảm, hai người tự do đính ước với nhau. Kim Trọng về quê chịu tang chú. Gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt đẩy vào lầu xanh. Nàng được Thúc Sinh cứu vớt nhưng lại bị vợ cả là Hoạn Thư ghen tuông đầy đọa. Kiều đến nương nhờ cửa phật, sư Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà vô tình đẩy nàng vào lầu xanh lần hai. Ở đây Kiều gặp Từ Hải, Từ Hải lấy Kiều giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến hãm hại, Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Kiều đau đớn tủi nhục, Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai Kiều nương nhờ cửa phật. Sau khi chịu tang chú xong chàng Kim trở lại tìm Kiều thì mới biết gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha. Kim Trọng kết hôn với Thúy Vân nhưng chẳng nguôi được mối tình say đắm chàng đi tìm Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên Kim Kiều gặp nhau gia đình đoàn tụ.
Nguyễn Du có viết:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".

Đó là những lời xót xa của Nguyễn Du khi viết về cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội mà ông đang sống. Dường như ông thấu hiểu sự đau khổ và bất lực của những người phụ nữ trong xã thời phong kiến, cái xã hội thối nát, đầy rẫy những sự bất công và trọng nam khinh nữ. Tất cả những người phụ nữ ở thời đại đó đều thùy mị, đảm đang nhưng chỉ vì những thế lực phong kiến, những cách nghĩ ngu muội mà cuộc đời họ đã chịu nhiều khổ cực. Mỗi người họ đều có một cuộc đời riêng, một nỗi đau khổ riêng, nhưng họ đều có đặc điểm chung là "bạc mệnh". Ta có thể thấy điều đó qua nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ và Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Người phụ nữ trong thời phong kiến xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ xinh đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt. Ở Vũ Nương, nàng "thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Khi lấy Trương Sinh, biết chàng có tính hay ghen nên nàng "cũng giữ gìn khuôn phép, chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra thất hòa". Nàng luôn một lòng, một dạ quý chồng thương con nên khi chàng Trương đi lính, nàng "không mong được đeo ấn phong hầu, chỉ cần ngày về được mang theo hai chữ bình yên". Có thể thấy, nàng là người con gái hiền lành, chất phác, cưới chàng Trương, nàng không hề mong danh lợi hay vinh hoa, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn "thú vui nghi gia, nghi thất". Khi chàng Trương đi lính, Vũ Nương một mình nuôi con, hết lòng chăm lo cho mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Lúc mẹ chồng bị bệnh, nàng đã hết mực chăm sóc, rồi khi bà mất, nàng làm ma chay, tế lễ chu đáo, nuôi con khôn lớn chờ đợi ngày Trương Sinh trở về. Đó là những nét đẹp về ngoại hình và cả trong tâm hồn của người phụ nữ xưa. Và đặc biệt phải kể đến cả Thúy kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi cha bị nghi oan, không có tiền để cứu cha, nàng đã bán mình chuộc cha dù đã có lời thề non hẹn biển với Kim Trọng. Từ đó, nàng đã không biết bao nhiêu lần rơi vào tay của những tên bán người như Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh...lừa gạt. Ở nơi đất khách quê người, bị đẩy vào những chốn lầu xanh, nàng vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng, cho cha mẹ mình hơn cả bản thân. Nàng nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến những ngày thánh cùng chàng nguyện ước. Nàng lo không biết ai sẽ chăm lo cho cha mẹ, ai sẽ quạt cho cha mẹ mỗi khi hạ đến, ai sẽ ủ chăn cho cha mẹ mỗi khi sang thu. Một tâm hồn thủy chung và cao thượng. Họ, những người phụ nữ phong kiến đều là những con người đẹp người đẹp nết. Họ một lòng chung thủy, hiếu thảo với cha mẹ, luôn hết lòng chăm sóc gia đình thật tốt và chu đáo.
Những người phụ nữ đẹp là thế, tâm hồn thanh cao là vậy, nhưng đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chèn ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ, hồng nhan thì bạc phận. Với Vũ Nương, sau khi chồng về, tưởng rằng gia đình sẽ sum vầy trong hạnh phúc nhưng không ngờ số phận bạc bẽo đã xảy ra với nàng. Trương Sinh đi lính trở về và đứa con của chàng lúc đó đã biết nói. Tin lời của 1 đứa trẻ ngây ngô mà Trương Sinh đã đem lòng nghi oan cho Vũ Nương. Chàng bảo thủ, khăng khăng, nhiếc mắng và đánh đuổi Vũ Nương 1 cách thậm tệ. Bỏ ngoài tai những lời khuyên ngăn của dân làng, không thèm nghe những lời giải thích của Vũ Nương, Trương sinh với cái tính ích kỉ, sự ghen tuông quá đỗi đã đẩy Vũ Nương đến ngõ cụt. Nàng phải lấy cái chết để giữ trong trắng cho bản thân mình. Nhưng cái chết đó không hề làm lương tâm Trương Sinh day dứt. Thật quá bất công. Cái chết của nàng không chỉ tố cáo tính cách của chàng Trương, mà còn tố cáo cả xã hội phong kiến thời bấy giờ. Với chế độ nam quyền thối nát, độc đoán, nó đã làm cho phụ nữ lúc bấy giờ phải chịu rất nhiều những oan trái, tủi nhục không đáng có. Chỉ vì cái xã hội trọng nam khinh nữ, cái xã hội người phụ nữ luôn ở mức thấp hèn mà nàng đã phải ôm nỗi đau không được giải oan mà tự vẫn.
Không những Vũ Nương mà còn có rất nhiều người phụ nữ phải chịu những đau đớn đó. "Phận đàn bà" trong xã hội ấy là "đau đớn", là "bạc mệnh", là tủi nhục không kể xiết. Như là Vương Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" - tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng của đại thi hào dân tộc "Nguyễn Du". Số phận của nàng còn lênh đênh hơn Vũ Nương rất nhiều. Lần này, dưới chế độ đồng tiền hôi tanh đen bạc. Nó đã tạo ra 15 năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp. Chỉ vì tiền mà bọn sai nha đã gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều. Để có tiền cứu cha và em trai của mình, nàng đã quết định bán thân cho Mã Giám Sinh – một tên gian ác buôn thịt bán người. Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong, đo đếm, cò ke, ngã giá... Và từ tay Mã Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà, mụ chủ nổi tiếng của thanh lâu. Là một người con gái xinh đẹp, tài năng, và đã sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, lương thiện gia giáo, dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà đã bày muốn thuê Sở Khanh lừa nàng, buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong trắng, đức hạnh, nàng đã trở thành một món đồ chơi thú vị cho bọn khách chơi. Số phận trái ngang của Kiều không chỉ dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, bèo dạt, mây trôi và lưu lạc 15 năm trời, đã chịu bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu
Vũ Nương và Thúy Kiều thật đáng thương! Họ dường như đại diện cho tầng lớp phụ nữ ngày xưa. Họ không được hưởng bất cứ một thứ quyền lợi, không được hưởng một chút tự do. Thật bất công! Những hủ tục phong kiến thối nát đã tạo nên khổ đau cho người phụ nữ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của xã hội vô lí đó. Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ thì luôn luôn đáng ca ngợi, đáng trân trọng và nâng niu.
Trong xã hội phong kiến xưa, quyền sống còn của con người mà nhất là quyền sống của người phụ nữ như là chỉ mãnh treo chuông, không có gì đảm bảo để tồn tại. Cuộc sống của họ cũng có thể được ví như "chim trong lồng, cá trong chậu". Họ không thể làm chủ được bản thân, làm chủ được cuộc sống của chính bản thân mình dẫu cho họ chỉ khát khao một điều giản đơn ấy thôi. Tại sao lại như thế? Khi cái mơ ước, niềm mong mỏi của những người phụ nữ quá đỗi tầm thường, bình dị: "làm chủ được cuộc sống, có một gia đình hạnh phúc" nhưng chẳng thể nào thực hiện được. Vâng, xin thưa rằng đó chình là tạo hóa trớ trêu mà thôi, thích đùa giỡn với số phận người phụ nữ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Kudo
12/07/2019 14:02:40
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:
"Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng "Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong 2 tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du và "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận.
Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con gái Nam Xương".
Tục ngữ có câu "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.
Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du. Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài 400 lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:
"Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài"
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền: "Trọng nam khinh nữ", người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dẻ dúm. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo "tam tòng", hay các quan niệm lạc hậu như "nữ nhân ngoại tộc"... Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng.
Tàn dư ấy của chế độ cũ vần còn rơi rớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn. Ngoài ra ở một số nước còn có những tổ chức phi nhân đạo xuất hiện nghề mua bán phụ nữ để trục lợi làm giàu.
Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vị xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc.
Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc.
Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng.
Còn riêng truyện Kiều lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt - đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong truyện Kiều. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.
Viết "Chuyện người con gái Nam Xương" và "Truyện Kiều", Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng số phận người phụ nữ.
2
0
Kudo
12/07/2019 14:03:28
Xã hội Việt Nam thế kỉ XVI kéo dài cuộc chiến tranh phe phái, mâu thuẫn đã gây nên bao cảnh mịt mù,đau thương .Các nhà văn nhân đạo đều xót xa , trân trọng và tập trung viết về họ- người phụ nữ . Có rất nhiều tác phẩm được viết về đề tài này như là truyện Kiều của Nguyễn Du hay “ chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đó đều là những tác phẩm khiến người đọc phải não nùng , búc xúc mỗi khi giở lại. Nguyễn Du đã từng thống thiết kêu lên:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Đó là những lời xót xa của Nguyễn Du khi viết về cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội mà ông đang sống . Dường như ông thấu hiểu sự đau khổ và bất lực của những người phụ nữ trong xã thời phong kiến , cái xã hội thối nát , đầy rẫy những sự bất công và trọng nam khinh nữ .Tất cả những người phụ nữ ở thời đại đó đều thùy mị , đảm đang nhưng chỉ vì những thế lực phong kiến , những cách nghĩ mu muội mà cuộc đời họ đã chịu nhiều khổ cực . Mỗi người họ đều có một cuộc đời riêng , một nỗi đau khổ riêng , nhưng họ đều có đặc điểm chung là bạc mệnh . Ta có thể thấy điều đó qua nhân vật Vũ Nương trong " chuyện người con gái Nam Xương " của Nguyễn Dữ và Thúy Kiều trong " Truyện kiều " của Nguyễn Du .
Người phụ nữ ngày phong kiến xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ xinh đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt . Ở Vũ Nương , nàng " thùy mị , nết na , lại thêm tư dung tốt đẹp " . Khi lấy Trương Sinh , biết chàng có tính hay ghen nên nàng " cũng giữ gìn khuôn phép , chưa từng lúc nào để vợ chồng xảy ra bất hòa " . Nàng luôn một lòng , một dạ quý chồng thương con nên khi chàng Trương đi lính , nàng " không mong được đeo ấn phong hầu , chỉ cần ngày về được mang theo hai chữ bình yên " . Có thể thấy , nàng là người con gái hiền lành , chất phác , cưới chàng Trương , nàng không hề mong danh lợi hay vinh hoa , phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn " thú vui nghi gia , nghi thất " . Khi chàng Trương đi lính , Vũ Nương một mình nuôi con , hết lòng chăm lo cho mẹ chồng như mẹ đẻ của mình . Lúc mẹ chồng bị bệnh , nàng đã hết mực khuyên lơn , rồi khi bà mất , nàng làm ma chay , tế lễ chu đáo , nuôi con khôn lớn chờ đợi ngày Trương Sinh trở về . Đó là những nét đẹp về ngoại hình và cả trong tâm hồn của người phụ nữ xưa . Và đăc biệt phải kể đến cả Thúy kiều , một người con gái tài sắc vẹn toàn . Khi cha bị nghi oan , không có tiền để cứu cha , nàng đã bán mình chuộc cha dù đã có lời thề non hẹn biển với Kim Trọng . Từ đó , nàng đã không biết bao nhiêu lần rơi vào tay của những tên bán người như Tú Bà , Sở Khanh , Mã Giám Sinh… lừa gạt . Ở nơi đất khách quê người , bị đẩy vào những chốn lầu xanh , nàng vẫn lo nghĩ cho Kim Trọng , cho cha mẹ mình hơn cả bản thân. Nàng nhớ đến Kim Trọng , nhớ đến những ngày thánh cùng chàng nguyện ước . Nàng lo không biết ai sẽ chăm lo cho cha mẹ , ai sẽ quạt cho cha mẹ mỗi khi hạ đến , ai sẽ ủ chăn cho cha mẹ mỗi khi sang thu .Một tâm hồn thủy chung và cao thượng .Họ , những người phụ nữ phong kiến đều là những con người đẹp người đẹp nết . Họ một lòng chung thủy , hiếu thảo với cha mẹ , luôn hêt lòng chăm sóc gia đình thật tốt và chu đáo .
Những người phụ nữ đẹp là thế , tâm hồn thanh cao là vậy , nhưng đáng tiêc thay họ lại sống trong một xả hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chén ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ , hồng nhan thì bạc phận . Với Vũ Nương , sau khi chồng về , tưởng rằng gia đình sẽ xum vầy trong hạnh phúc nhưng không ngờ số phận bạc bẽo đã xảy ra với nàng .Trương Sinh đi lính trở về và đứa con của chàng lúc đó đã biết nói. Tin lời của 1 đứa trẻ ngây ngô mà Trương Sinh đã đem lòng nghi oan cho Vũ Nương. Chàng bảo thủ , khăng khăng , nhiếc mắng và đánh đuổi Vũ Nương 1 cách thậm tệ. Bỏ ngoài tai những lời khuyên ngăn của dân làng, không thèm nghe những lời giải thích của Vũ Nương, Trương sinh Với cái tính ích kỉ, sự ghen tuông quá đỗi đã đẩy Vũ Nương đến ngõ cụt. Nàng phải lấy cái chết để giữ trong trắng cho bản thân mình . Nhưng cái chết đó không hề làm lương tâm Trương Sinh day dứt. Thật quá bất công. Cái chết của nàng không chỉ tố cáo tính cách của chàng Trương , mà còn tố cáo cả xã hội phong kiến thời bấy giờ . Với chế độ nam quyền thối nát , độc đoán , nó đã làm cho phụ nữ lúc bấy giờ phải chịu rất nhiều những oan trái ,tủi nhục không đáng có.Chỉ vì cái xã hội trọng nam khinh nữ , cái xã hội người phụ nữ luôn ở mức thấp hèn mà nàng đã phải ôm nỗi đau không được giải oan mà tự vẫn .
Không những Vũ Nương mà còn có rất nhiều người phụ nữ phải chịu những đau đớn đó. . “Phận đàn bà” trong xã hội ấy là “ đau đớn” , là “ bạc mệnh” , là tủi nhục không kể xiết. Như là Vương Thúy Kiều trong “truyện Kiều”-tiếng kêu thương thống thiết , ai oán , não nùng của đại thi hào dân tộc “ Nguyễn Du”. Số phận của nàng còn lênh đênh hơn nhiều Vũ Nương . Lần này , dưới chế độ đồng tiền hôi tanh đen bạc. Nó đã tạo ra 15 năm đau đớn phiêu bạt của nàng Kiều xinh đẹp . Chỉ vì tiền mà bọn sai nha đã gây nên cảnh tan tác, chia lìa của gia đình Kiều.Để có tiền cứu cha và em trai của mình , nàng đã quết định bán thân cho Mã Giám Sinh – một tên gian ác buôn thịt bán người. Và Kiều bỗng trở thành một món hàng để cho hắn cân đong . đo đếm , cò ke, ngã giá... Và từ tay Mà Giám Sinh đểu cáng thì Kiều đã rơi vào tay Tú Bà , mụ chủ nổi tiếng của thanh lâu. Là một người con gái xinh đẹp , tài năng, và đã sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, lương thiện gia giáo , dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những trận đòn tàn khốc của Tú Bà, nàng đã đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú bà bắt gặp. Tú Bà đã bày muốn thuê Sở khanh lừa nàng , buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục .Đau đớn thay !! Từ một cô gái trong trắng , đức hạnh, nàng đã trở thành một món đồ chơi thú vị cho bọn khách chơi. Số phận trái ngang của Kiều không chỉ dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh , bèo dạt , mây trôi và lưu lạc 15 năm trời , đã chịu bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu .
Vũ Nương và Thúy Kiều thật đáng thương !Họ dường như đại diện cho tầng lớp phụ nữ ngày xưa . Họ không được hưởng bất cứ một thứ quyền lợi, không được hưởng một chút tự do . Thật bất công! Những hủ tục phong kiến thối nát đã tạo nên khổ đau cho người phụ nữ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của xã hội vô lí đó.Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ thì luôn luôn đáng ca ngợi, đáng trân trọng và nâng niu.
Đọc tác phẩm " Chuyện người con gái Nam Xương " của Nguyễn Dữ và " Truyện Kiều " của Nguyễn Du , ta càng hiểu thêm và đồng cảm với những kiếp người bạc mệnh như các nhân vật chính trong truyện , và giúp ta bồi đắp lòng yêu thương con người và trân trọng vẻ đẹp cuả người phụ nữ Việt Nam.
2
0
Kudo
12/07/2019 14:05:16
Từ xưa đến nay, người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn chiếm một vị trí trung tâm và là đối tượng chính trong văn học Việt Nam, thể hiện cảm quan hiện thực và khuynh hướng tư tưởng có màu sắc nhân văn. Nhận xét về số phận người phụ nữ, Nguyễn Du đã xót xa: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Ta có thể dễ dàng làm rõ nhận xét trên chỉ bằng hai ví dụ điển hình: nàng Vũ Nương trong tác phẩm Truyện người con gái Nam Xương và nàng Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Những biến động vô lường của cuộc sống con ng` là hình tượng “phận đàn bà bạc mệnh” bị vùi dập dưới sự tàn bạo của chế độ phong kiến.
Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ca ngợi bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn hậu bao dung. Cả hai nàng Vũ Nương và Thuý Kiều đều là mẫu mực của người phụ nữ đẹp người đẹp nết, thông minh tháo vát, sắt son, hiếu thảo. Thế nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai hoạ khôn lường. Nàng Vũ Nương có một nét đẹp vẹn toàn, hài hoà giữa vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn. Xinh đẹp, tiết hạnh như vậy nhưn nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn: Trương Sinh vốn là con nhà giàu nhưng không có học, “xin với mẹ trăng lạng vàng” lấy nàng làm vợ. Chàng vốn tính tình đa nghi nóng nảy, nàng lại càng giữ gìn khuôn phép để gia đình luôn yên ấm, hạnh phúc. Nhưng chiến tranh xảy ra, Trương Sinh bị bắt lính. Nàng ở nhà sinh con, chăm sóc chu đáo mẹ già luôn đau ốm và quán xuyến mọi việc. Mẹ chồng mất, nàng lo cho bà mồ yên mả đẹp như chính mẹ đẻ mình, rồi một mình nuôi dạy con thơ. Những tưởng tấm lòng ấy sẽ được đền bù thoả đáng, nhưng không, khi Trương Sinh trở về thì đứa con tên Đản không nhận chàng là cha nó mà nói về người cha khác “đêm nào cũng đến”. Trương Sinh không hiểu rõ câu chuyện nhưng tính đa nghi đã khiến chàng trở nên mù quáng. Chàng nghĩ rằng vợ mình đã làm một việc mà không một ai có thể tha thứ: tội ngoại tình, mà không ngờ “người cha” kia chỉ là chiếc bóng, mỗi khi ngồi buồn Vũ Nương thường chỉ lên và nói là cha bé Đản. Trương Sinh ruồng rẫy, đánh đuổi Vũ Nương đi, không thèm nghe những lời thanh minh của nàng. Bị chồng hiểu làm, bị hàm oan tức tưởi, cuộc đời nàng rơi vào bế tắc: nếu sống thì phải mang tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi vậy, dẫu còn khao khát, vấn vương hạnh phúc nơi trần thế, nàng đành chấp nhận cái chết trầm mình xuống lòng Hoàng Giang, để chứng minh phẩm tiết. Cái chết oan khuất đó quả là đáng thương, kết thúc kiếp đời ngắn ngủi của ng` con gái thuỷ chug; và còn là lời lên án tính tình của Trương Sinh. Truyện không phải không hé mở các khả năng tránh tấn thảm kịch bi thương cửa Vũ Nương nhưng Trương Sinh đã đánh mất hết cơ hội tận dụng các khả năng đó. Lời nói của bé Đản cũng có ít nhiều vô lí, vả lại Trương Sinh ko nói ra rằng do ai mà chàng cho rằng Vũ Nương ngoại tình. Thêm vào đó, hàng xóm đã phân trần cho Vũ Nương. Nhưng tất cả là do cơn tức giận hồ đồ, sự chủ quan và đa nghi của Trương Sinh, cộng thêm nỗi đau vừa mất mẹ. Nó đã lấn át mọi thứ có thể thanh minh cho Vũ Nương. Chàng quả là phũ phàng, đem uy lực nam nhi để giải quyết mọi chuyện, khư khư cho rằng mình đúng không thèm nghe bất cứ ai. Câu chuyện của Vũ Nương đã vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình, mang tính xã hội khi chế độ nam quyền đã đè nặng lên vai người phụ nữ, không cho họ quyền được sống với chính mình, bị lệ thuộc vào nam giới. Người con gái đức hạnh, giỏi giang như Vũ Nương chết vì một chuyện không đâu. Nàng cho đến chết vẫn chẳng biết được nguyên nhân vì sao mình chết, đến chết vẫn ôm nỗi oan. Những lời nói của nàng nào có ai tin, như vậy chỉ còn một cách chứng minh là tực vẫn. Nàng tự vẫn nhưng cũng là do Trương Sinh gián tiếp bức tử, và nguyên nhân sâu xa hơn nữa là do xã hội bất công, đầy ngang trái. Chế độ trọng nam khinh nữ đã thấm sâu vào máu huyết của người đàn ông. Đằng sau cái chết, đằng sau nỗi đau đớn mà “phận đàn bà” luôn phải gánh chịu, đằng sau sự khinh rẻ của mọi người với Vũ Nương ta còn có thể thấy hình ảnh của người người phụ nữ khác. Thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy. Họ luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng. Số phận bất hạnh của Vũ Nương gợi đến bao phong ba bão táp đã đi qua cuộc đời của những Đạm Tiên, Thuý Kiều, Tiểu Thanh, người chinh phụ… Đặc biệt là nàng Thuý Kiều. Nàng xinh đẹp như bậc quốc sắc, thông minh, thạo cầm, kì, thi, hoạ,… có thể coi là hoàn hảo. Nhưng bi kịch thảm thương lại đến với nàng ngay ở tuổi mười tám đôi mươi, giữa gia đình hạnh phúc; ép buộc nàng từ bỏ mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng đang độ khao khát và sôi nổi nhất. Vì để làm trọn chữ hiếu, nàng đã từ một tiểu thư quyền quý rơi vào chốn lầu xanh. Những kẻ buôn thịt bán người vô nhân đạo như Tú Bà và Mã Giám Sinh đã làm vẩn đục đoá hoa vốn tinh khiết, đã bao lần hành hạ cho đoá hoa ấy tan nát rã rời. Được Thúc Sinh cứu giúp, nàng những tưởng cuộc đời phong trần thế là hết nhưng ai ngờ một chuyện không may khác lại xảy ra với nàng. Vợ cả của Thúc Sinh- Hoạn Thư là người cực kì gian ngoan, xảo trá và có tính ghen tuông ghê gớm. Với âm mưu thâm độc của Hoạn Thư, Thuý Kiều bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần. Nàng nhảy sông tự tử, vừa được sư Giác Duyên cứu thì đã lại rơi vào tay Bạc Bà cũng là “phường buôn thịt bán người”. Sau đó, trời đã xót thương cho Thuý Kiều, đem Từ Hải đến với nàng. Đó là một anh hùng đội trời đạp đất, tung hoành khắp nơi, đã cảm phục tấm lòng son sắt và đức hạnh mà cưới nàng về từ chốn lầu xanh. Từ Hải hết lòng thương quý, trân trọng nàng, giúp nàng báo ân báo oán. Không ngờ Từ Hải bị hại chết chết mà chính nàng là nguyên nhân gián tiếp do khuyên Từ Hải ra hàng, và để rồi mắc lừa quan tổng đốc Đại thần Hồ Tôn Hiến. Đau đớn, hổ thẹn, ân hận biết bao khi lỡ lầm gây ra cái chết uất ức cho Từ Hải, nàng đã khóc cạn nước mắt và liền đó nhảy sông tự tử. Nhưng cuối cùng, sau khi được sư Giác Duyên cứu giúp lần nữa, Thuý Kiều đã gặp lại Kim Trọng- người mà trong suốt mười lăm năm lưu lạc nàng không bao giờ quên- hình bóng của mối tình đầu thắm thiết. Tuy nhiên đó vẫn chưa phải là cái kết cho bi kịch của Thuý Kiều, bởi vì tấm thân nàng đã không còn trong trắng, tai tiếng về số phận “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” chắc chắn vẫn là một làn sóng dư luận hành hạ nàng suốt cuộc đời về sau. Dường như về cuối truyện đã vắng bóng nàng Thuý Kiều tế nhị, dịu dàng đằm thắm ngày xưa, bởi bóng đen của quá khứ đã đè nặng lên hiện tại đời nàng khiến tâm trạng nàng trở nên nặng nề tủi nhục. Cuộc đời nàng thật đầy phong ba, bão táp, bao phen bị xã hội phong kiến đầy rẫy gian dối, lừa lọc đạp xuống bùn lầy. Xã hội phong kiến ấy gồm những thế lực nào? Đó chính là bọn quan lại, sai nha bỉ ổi, dâm ô, tráo trở, một bên là những kẻ đã vì ăn hối lộ của thằng bán tơ mà vu oan cho Vương Ông, và đòi “có ba trăm lạng việc này mới xong”, một bên là Hồ Tôn Hiến nổi tài lật lọng. Đó chính là bọn buôn người Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh Bạc Bà, chuyên nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, đã hai lần đưa Kiều vào lầu xanh- chốn bụi trần đầy rẫy nỗi ê chề nhục nhã, “ong qua bướm lại” xấu xa, coi nàng như một món đồ quý hái ra tiền. Đó chính là Hoạn Thư, Hoạn Bà- hai con người nham hiểm nanh nọc, ỷ thế danh gia, sẵn sàng làm những chuyện vô lương tâm nhất, chôn vùi danh dự... Kiều vào tận cùng nỗi đau đớn, ê chề để thoả mãn cơn ghen. Nhìn chung, cuộc đời sóng gió đáng thương của nàng là do nhiều người gây ra, nhưng chủ yếu vẫn là chế độ phong kiến hủ tục, coi phụ nữ như một món hàng kiếm lợi, như một dụng cụ mua vui. Khi đã rơi vào tay một kẻ nhẫn tâm thì ngay lập tức, họ bị tước đi quyền con người, gián tiếp bị gán cho cái tên “vật sở hữu”. Cuộc đời long đong của Kiều đã nói lên tiếng nói khát vọng cho một xã hội bình đẳng, hạnh phúc.
Như vậy, chế độ phong kiến với nhiều tục lệ, quy định cổ hủ, khe khắt đè nặng lên cuộc đời “phận má hồng”. Người phụ nữ dưới chế độ Nam quyền độc đoán ấy phải chịu nhiều thiệt thòi, đau đớn: Người con gái Nam Xương- Vũ Nương ko thể giãi bày nỗi oan khiên nên phải trầm mình, nàng Kiều phải bán mình, phải mười lăm năm đoạn trường lưu lạc. Cho dù cuối cùng, Vũ Nương đã được “sống lại” ở thế giới tâm linh, Kiều đã vui vầy bên Kim Trọng; nhưng Vũ Nương vẫn không thể nào có đc hạnh phúc như một phụ nữ bình thường, vui vẻ bên chồng con, và vĩnh viễn Kiều không thể nào tìm lại được tình yêu sôi nổi thiết tha mười lăm năm về trước, vẫn phải chịu tai tiếng ê chề. Như vậy, cả hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều đã cho thấy rằng hiện thực tàn nhẫn của xã hội cũ sẽ còn đeo đuổi số phận của con người mãi mai. Hoàn cảnh bi kịch đã chấm dứt nhưng tâm lí bi kịch vẫn tồn tại. Và chỉ qua hai tác phẩm trên, chúng ta có thể nhận thấy rõ xã hội phong kiến tàn ác ra sao, nhẫn tâm thế nào, bằng chứng là cuộc đời long đong của Vũ Nương và Thuý Kiều, và ta càng căm phẫn trước những thế lực phong kiến đen tối, hủ lậu chà đạp lên quyền hưởng hạnh phúc, quyền được sống của con người.
0
0
(•‿•)
13/07/2019 11:58:40
Nguyễn Du là người đã kết tinh mọi truyền thống ưu tú nhất của văn học bác học và văn học dân gian Việt Nam, người kết hợp vốn văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc để sáng tạo ra kiệt tác có tầm cỡ thế giới là Truyện Kiều. Với Truyện Kiều, ông đã đưa thể loại truyện Nôm thịnh hành từ thế kỷ XVII lên một trình độ cổ điển, tiếp cận với thể loại tiểu thuyết tâm lý hiện đại. Ông đã đưa tiếng Việt văn học lên trình độ cổ điển tuyệt vời, trở thành mẫu mục của ngôn ngữ nghệ thuật dân tộc. Đến lượt mình Truyện Kiều lại dấy lên những hoạt động văn học, văn hóa phong phú khác như vịnh Kiều, bình Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều, trò Kiều... Truyện Kiều trở thành tác phẩm độc tôn trong đời sống văn học dân tộc. Trên thế giới cũng hiếm có một tác phẩm nào có ảnh hưởng tới văn hóa dân tộc sâu rộng đến như thế! Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là một đỉnh cao trong thơ chữ Hán Việt Nam, với nghệ thuật của một cây đại bút như có nhà nghiên cứu Trung Hoa đã gọi như thế. Nguyễn Du đã thể hiện một tinh thần nhân đạo sâu sắc nhất và một tinh thần phê phán không khoan nhượng đối với các thế lực đen tối của xã hội phong kiến. Nguyễn Du là nhà văn được cả dân tộc suy tôn, yêu chuộng và tự hào. Năm 1965, ông đã vinh dự được Hội đồng Hòa bình thế giới đề xuất kỷ niệm cùng với tám danh nhân văn hóa thế giới, trong đó có Hô-ra-xơ (La Mã), Đan-tê (I-ta-li-a), Lô-mô-nô-xốp (Nga), It-xơ (Ai-len)... Nguyễn Du là thi hào Việt Nam đầu tiên đi vào lịch sử văn hóa nhân loại. Cho đến nay Truyện Kiều của ông đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên thế giới, thể hiện lòng ngưỡng mộ của nhân loại đối vói nhà thơ Việt Nam.
Nguyễn Du quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân , Hà Tĩnh, sinh năm Ất Dậu (1765) ở Thăng Long. Có ý kiến nói ông sinh năm 1766, nhưng tài liệu còn cần xác nhận thêm. Tuy xuất thân từ một gia đình quý tộc nhiều đời làm quan lớn trong triều đình Lê - Trịnh, nhưng Nguyễn Du lại là người chứng kiến sự sụp đổ, ly tán của gia đình và sự cáo chung của triều đình phong kiến mà gia đình ông mang nặng công ơn. Cơn phong ba lịch sử dữ dội đã làm bật gốc quý tộc của Nguyễn Du, cho ông có dịp sống cuộc đời cơ cực, lầm than của người dân thời loạn và làm cho tư tưrởng của nhà thơ đổi thay cần bản, từ một người mang nặng tư tưởng chính thống, ôm mộng khôi phục nhà Lê, Nguyễn Du đã phải chấp nhận sự đổi thay của thực tế lịch sử.
Từ một người mang tư tưởng lập công danh, Nguyễn Du cảm nhận được công danh chỉ là phù vân, không mấy mặn mà với bước đường quan chức. Từ một nhà quý tộc, Nguyễn Du trở thành một nhà nhân đạo chủ nghĩa, đồng tình sâu sắc với mọi kiếp người bất hạnh trên thế gian, nhà văn có cảm hứng hiện thực chủ nghĩa, cảm thấy được sự bất công tàn bạo của xã hội phong kiến và lên án, tố cáo tội ác của nó.
Toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du đã thể hiện tư tưởng rất sâu sắc và tài năng nghệ thuật tuyệt vời của ông. Truyện Kiều, theo nghiên cứu mới nhất của các nhà văn bản học ngày nay, có khả năng được sáng tác vào những ngày ông sống ở quê vợ Thái Bình (1786 - 1796), được sửa chữa, hoàn thiện dần dần cho đến trước khi Gia Long lên ngôi (1802) thì hoàn thành, sau đó được sao chép, khắc in, lưu truyền ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam và tạo thành các dị bản khác nhau. Mặc dù nguyên bản Truyện Kiều của Nguyễn Du đến nay không còn, nhưng theo nghiên cứu của các nhà văn bản học thì trên 90% văn bản của Nguyễn Du vẫn còn bảo lưu, phần sai khác còn lại có thể dần dần khôi phục. Như thế, giá trị văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du đến nay căn bản vẫn còn khá nguyên vẹn và ta hoàn toàn có cơ sở để đánh giá đúng sáng tạo của thi hào.
Ngay khi mới ra đời, các nhà nho đương thời với Nguyền Du đã đánh giá Truyện Kiều là thiên tuyệt bút "có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt đến nghìn đời". Truyện Kiều trước hết là tiếng khóc lớn cho số phận con người. Ông không chỉ khóc cho những kẻ tài hoa bạc mệnh mà khóc cho những khát vọng hạnh phúc lứa đôi, ước mơ tự do công lý, cho phẩm chất trong trắng bị chà đạp tàn bạo dưới thế lực đen tối. Nhà thơ Tố Hữu đã hiểu rất đúng cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Du khi ông viết: ‘Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều". Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã khái quát:
"Truyện Kiều là một tiếng kêu thương”, Đó là tiếng kêu đau đớn vì thương yêu, trân trọng con người, đặc biệt là thương yêu những ngươi phụ nữ. Nguyễn Du đã hai lần kêu lên: "Đau đớn thay phận đàn bà!". Một lần trong Truyện Kiều, một lần trong Văn tế thập loại chúng sinh. Vấn đề phụ nữ đã được nói đến trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, nhưng Nguyễn Du đã kế thừa và nói sâu hơn, phổ quát hơn. Nguyễn Du không chỉ nói về người tài, nói về người phụ nữ, mà nói về con người nói chung: "Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Cả Truyện Kiều, nhà thơ chủ yếu nói về nỗi đau của con người. Điều ấy giải thích vì sao tác phẩm của Nguyễn Du đã có được sức lay động, cộng hưởng rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Nhân vật Thuý Kiều tuy là xuất thân gia đình tiểu phong kiến, song nỗi đau của cô là nỗi đau của con người nói chung: bị vu oan, bị ngược đãi, bị mua đi bán lại, bị đánh đập, bị làm nhục. Đó là nỗi đau của con người bị tước mất quyền sống, quyền được công lý bảo vệ. Nguyễn Du đã từng mơ uớc có một triều đình kiểu Từ Hải, có thể "Oán thì trả oán, ân thì trả ân", nhưng ông không tin là có thể có thật trong xã hội phong kiến, và Từ Hải phải chết. Từ Hải chỉ xuất hiện để khẳng định một khát vọng tha thiết của nhà thơ. Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du đã nói đến nỗi bất hạnh "thập loại chúng sinh", từ trẻ sơ sinh cho đến ngườỉ lớn, từ kẻ làm quan, làm tướng, kẻ giàu sang cho đến người làm nghề nguy hiểm, nghề buôn bán, đặc biệt là người phụ nữ làm nghề ca kỹ, thể hiện một tình thương bao la hết mọi kiếp người, mong cho họ được siêu sinh tịnh độ. Truyện Kiều kết tinh những yếu tố sâu sắc nhất trong tư tưởng truyền thống như lòng hiếu sinh của nho gia, đạo từ bi hỷ xả của phật giáo, quan niệm về có thân là có khổ của đạo gia... Nguyễn Du đã quy mọi nguyên nhân nỗi đau của con người vào định mệnh thần bí mà ông trời là đại diện. Cái gọi là số mệnh thực chất chỉ là một.
Từ một người mang tư tưởng lập công danh, Nguyễn Du cảm nhận được công danh chỉ là phù vân, không mấy mặn mà với bước đường quan chức. Từ một nhà quý tộc, Nguyễn Du trở thành một nhà nhân đạo chủ nghĩa, đồng tình sâu sắc với mọi kiếp người bất hạnh trên thế gian, nhà văn có cảm hứng hiện thực chủ nghĩa, cảm thấy được sự bất công tàn bạo của xã hội phong kiến và lên án, tố cáo tội ác của nó.
Toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du đã thể hiện tư tưởng rất sâu sắc và tài năng nghệ thuật tuyệt vời của ông. Truyện Kiều, theo nghiên cứu mới nhất của các nhà văn bản học ngày nay, có khả năng được sáng tác vào những ngày ông sống ở quê vợ Thái Bình (1786 - 1796), được sửa chữa, hoàn thiện dần dần cho đến trước khi Gia Long lên ngôi (1802) thì hoàn thành, sau đó được sao chép, khắc in, lưu truyền ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam và tạo thành các dị bản khác nhau. Mặc dù nguyên bản Truyện Kiều của Nguyễn Du đến nay không còn, nhưng theo nghiên cứu của các nhà văn bản học thì trên 90% văn bản của Nguyễn Du vẫn còn bảo lưu, phần sai khác còn lại có thể dần dần khôi phục. Như thế, giá trị văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du đến nay căn bản vẫn còn khá nguyên vẹn và ta hoàn toàn có cơ sở để đánh giá đúng sáng tạo của thi hào.
Ngay khi mới ra đời, các nhà nho đương thời với Nguyền Du đã đánh giá Truyện Kiều là thiên tuyệt bút "có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt đến nghìn đời". Truyện Kiều trước hết là tiếng khóc lớn cho số phận con người. Ông không chỉ khóc cho những kẻ tài hoa bạc mệnh mà khóc cho những khát vọng hạnh phúc lứa đôi, ước mơ tự do công lý, cho phẩm chất trong trắng bị chà đạp tàn bạo dưới thế lực đen tối. Nhà thơ Tố Hữu đã hiểu rất đúng cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Du khi ông viết: '‘Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều". Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã khái quát:
"Truyện Kiều là một tiếng kêu thương”, Đó là tiếng kêu đau đớn vì thương yêu, trân trọng con người, đặc biệt là thương yêu những ngươi phụ nữ. Nguyễn Du đã hai lần kêu lên: "Đau đớn thay phận đàn bà!". Một lần trong Truyện Kiều, một lần trong Văn tế thập loại chúng sinh. Vấn đề phụ nữ đã được nói đến trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, nhưng Nguyễn Du đã kế thừa và nói sâu hơn, phổ quát hơn. Nguyễn Du không chỉ nói về người tài, nói về người phụ nữ, mà nói về con người nói chung: "Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Cả Truyện Kiều, nhà thơ chủ yếu nói về nỗi đau của con người. Điều ấy giải thích vì sao tác phẩm của Nguyễn Du đã có được sức lay động, cộng hưởng rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Nhân vật Thuý Kiều tuy là xuất thân gia đình tiểu phong kiến, song nỗi đau của cô là nỗi đau của con người nói chung: bị vu oan, bị ngược đãi, bị mua đi bán lại, bị đánh đập, bị làm nhục. Đó là nỗi đau của con người bị tước mất quyền sống, quyền được công lý bảo vệ. Nguyễn Du đã từng mơ uớc có một triều đình kiểu Từ Hải, có thể "Oán thì trả oán, ân thì trả ân", nhưng ông không tin là có thể có thật trong xã hội phong kiến, và Từ Hải phải chết. Từ Hải chỉ xuất hiện để khẳng định một khát vọng tha thiết của nhà thơ. Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du đã nói đến nỗi bất hạnh "thập loại chúng sinh", từ trẻ sơ sinh cho đến ngườỉ lớn, từ kẻ làm quan, làm tướng, kẻ giàu sang cho đến người làm nghề nguy hiểm, nghề buôn bán, đặc biệt là người phụ nữ làm nghề ca kỹ, thể hiện một tình thương bao la hết mọi kiếp người, mong cho họ được siêu sinh tịnh độ. Truyện Kiều kết tinh những yếu tố sâu sắc nhất trong tư tưởng truyền thống như lòng hiếu sinh của nho gia, đạo từ bi hỷ xả của phật giáo, quan niệm về có thân là có khổ của đạo gia... Nguyễn Du đã quy mọi nguyên nhân nỗi đau của con người vào định mệnh thần bí mà ông trời là đại diện, Cái gọi là số mệnh thực chất chỉ là một miêu tả nhân vật theo điểm nhìn bên ngoài thì Nguyễn Du đã kể chuyện theo điểm nhìn bên trong. Nhà văn như đứng từ điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện, miêu tả cảnh vật, khắc họa tâm lý, làm cho toàn bộ đời sống bên trong của nhân vât được phơi bày trọn vẹn, khiến cho người đọc không phải chỉ nhìn nhân vật từ bên ngoài mà như được sống cùng nhân vật. Hệ quả của mô hình này là Nguyễn Du đã tái hiện được con người bên trong của nhân vật, mỗi lời thơ của truyện như thốt ra từ tâm can nhân vật, các yếu tố cảnh vật và tâm trạng được tăng cường, và kết quả Truyện Kiều là một tác phẩm mới hẳn. Thực chất của nghệ thuật văn học là ở phương diện ngôn từ. Ngôn từ vừa là sản phẩm sáng tạo của mỗi nhà văn, vừa là phương thức tồn tại của văn học. Không có ngôn từ là không có gì hết. Vì thế ngôn từ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Cùng với cách kể chuyện mới, Nguyễn Du đổi mói toàn bộ ngôn ngữ kể chuyện, sử dụng rộng rãi các hình thức độc thoại nội tâm, lời nửa trực tiếp... Đồng thời, Nguyễn Du đã sử dụng tiếng Việt một cách tài tình, tạo ra những dòng thơ vừa đẹp, vừa chính xác, vừa gợi cảm, vừa giàu chất thơ khó ai sánh kịp trong thơ tiếng Việt. Về mặt thể thơ, Nguyên Du đã sáng tạo ra hình thức văn học của thơ lục bát, nâng hình thức lục bát dân dã trong ca dao, dân ca thiên về kể lể lên hình thúc văn học cổ điển với luật bằng trắc chỉnh tề, nhiều hình thức tiểu đối phong phú, đa dạng, có khả năng biểu đạt cô đọng, hàm súc, nhiều dư vị.
Truyện Kiều là tập đại thành của văn học Việt Nam, kết tinh những tư tượng sâu sắc nhất về con người, về cuộc đời, tổng hợp những tinh hoa đẹp đẽ nhất của nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật thơ ca, nghệ thuật kịch, là sự kết hợp tài tình nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật thơ ca cổ điển của Trung Hoa và nghệ thuật Việt Nam, làm thành một đỉnh cao chói lọi trong văn học dân tộc. Thành tựu ấy chỉ có bậc đại thi hào mới thực hiện được mà những bí mật của nó sẽ còn là đề tài nghiên cứu không bao giờ vơi cạn.
Thành tựu của Truyện Kiều là vô song, nhưng không phải là tất cả. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là một thành tựu đột xuất. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du ở vào giai đoạn chín muồi, điêu luyện. Có nhà nghiên cứu Trung Quốc nhận định thơ chữ Hán của ông thuộc loại thơ của bậc đại bút. Thành tựu đột xuất của thơ chữ Hán Nguyễn Du là tập Bắc hành tạp lục viết trong khi đi sứ Trung Quốc. Hình như ở tập thơ viết về những người, những việc của nước Trung Hoa này nhà thơ của chúng ta được tự do thể hiện tình cảm, tư tưởng hơn, nên trước mắt ta xuất hiện một Nguyễn Du táo bạo, mạnh mẽ, bộc trực, khác hẳn Nguyễn Du trong hai tập Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm làm ở trong nước. Nếu trong hai tập thơ trước Nguyễn Du thiên về biểu hiện tình cảm sầu hận, than tiếc thân thế, tài hoa phí hoài của riêng mình, thì ở tập thơ này nhà thơ thiên về quan sát, suy ngẫm về thế sự, lịch sử. Mỗi khi đi qua một di tích, danh lam thắng cảnh hay di chỉ của nhân vật lịch sử Trung Hoa, những điều mắt thấy, tai nghe đều trở thành đề tài của những bài thơ tự sự, trữ tình nổi tiếng của Nguyễn Du. Bài thơ Người hát rong ở Thái Bình và Những điều trông thấy thể hiện một mối quan tâm sâu sắc, thiết tha đối với số phận của những người dân nghèo khổ mà ông nhìn thấy trên đường. Và điều đó đâu chỉ nói về người đói khổ ở Trung Quốc, lẽ nào trong đó không có sự xót thương thường trực đối với người dân trong nước, không có sự hồi tưởng tới cảnh đói khát ốm đau không thuốc thang của chính Nguyễn Du và vợ con của ông trong mười năm gió bụi và cả những năm đầu ông làm quan cho nhà Nguyền?
Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du có những bài thê hiện lòng xót thương vô hạn đối với những người phụ nữ tài sác, chịu số phận oan trái trong cuộc biến độn của lịch sử. Bài thơ Bài ca người gẩy đàn ở Long Thành kể về số phận đáng thươngg của một người gẩv đàn tài hoa xinh đẹp trong cung ngày trước, sau cơn đổi thay triều đại, nay trở thành ngườị đàn bà tiều tụy. Cả bài thơ thấm đẫm một giọng ngậm ngùi, ai oán. Trong cảm xúc về số phận những người tài sắc, chắc chắn có sự xót thương cho số phận của chính nhà thơ. Trong bài Đọc tập Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du vừa xót thương cho số phận của cô Tiểu Thanh tài sắc mà bạc mệnh, vừa liên tưởng tới số phận của mình: "Ba trăm năm lẻ sau này nhỉ. Thiên hạ ai người khóc Tố Như?". Bài thơ này tuy viết về một người Trung Hoa nhưng có ý kiến nói được làm khi ở trong nước, cho nên không có trong tập Bắc hành tạp lục. Dù sao cảm hứng về người tài hoa bạc mệnh luôn đeo bám Nguyễn Du suốt đời, một tình cảm xót thương dành cho những giá trị hiếm hoi của nhân loại, một lời nhắn gửi đối với hậu thế hãy xót thương, trân trọng người tài.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn có một loạt bài nói về các nhà thơ Trung Hoa mà ông coi như người bạn, người thầy. Đó là Khuất Nguyên, Đỗ Phủ. Nguyễn Du là người có tu dưỡng uyên thâm về Hán học, đã từng học tập không biết bao nhiêu bậc thầy Trung Hoa cổ đại mà ông chưa một lần được viếng thâm. Chuyến đi sứ thật là một diễm phúc để ông có dịp chiêm bái những bậc thầy văn chương mà bạc mệnh. Nguyễn Du có dịp xem bơi trải trên sông Mịch La để tưởng nhớ Khuất Nguyên. Ông hoàn toàn đồng cảm với tấm lòng cô trung của Khuất Nguyên và căm phẫn với lũ thượng quan đương thời. Ông nhìn thấy trong hiện thực đen tối đương thời không có chỗ dung thân cho những người tài hoa trong sáng. Vì thế, trong bài thơ Phản chiêu hồn, Nguyễn Du chống lại bài Chiêu hồn tương truyền của Tống Ngọc làm để gọi hồn Khuất Nguyên trả về. Bởi dẫu có về cũng không có chỗ dung thân. Nguyễn Du đã bày tỏ một lập trường không khoan nhượng đối với thực tại đen tối. Bài thơ Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương thể hiện tình cảm mến yêu, thông cảm rất mưc chân thành giữa những người lỗi lạc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện một nghệ thuật điêu luyện và một tâm tư tưởng sâu sắc, một tư thế văn chương cứng cỏi đáng làm bậc thày cho hậu thế về thái độ đối với hiện thực.
Sáng tác của Nguyễn Du là một phần quý báu nhất và đặc sắc nhất trong di sản văn học của dân tộc Việt Nam, là phần đã trở thành tài sản văn hóa thế giói, một trong những phần không thể thiếu làm nên sự phong phú cho mỗi người Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của Nguyễn Du đem lại cho ta niềm tin vào tài năng và giá trị của văn hóa dân tộc, làm cho ta thêm mến yêu và tự hào với các truyền thống ưu tú của Việt Nam, cổ vũ chúng ta sáng tạo thêm những giá trị mới xứng tầm với dân tộc.
Để phát huy xứng đáng giá trị của di sản nghệ thuật của đại thi hào Nguyễn Du, chúng ta có nhiều việc cần phải làm. Một là trên cơ sở những thành tựu đã có về văn bản học cố gắng xác định được một văn bản gần với nguyên tác nhất. Hai là tiếp tục nghiên cứu mọi mặt về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyền Du để làm sáng tỏ thêm các truyền thống nghệ thuật ưu tú của dân tộc. Thơ chữ Hán Nguyễn Du tuy rất hay, nhưng để cho mọi người có thể thưởng thức được các giá tri của nó cần thiết phải có nhũng bản dịch nghĩa và dịch thơ vừa tín vừa đạt. Thời gian qua đã xuất hiện thêm nhiều bản dịch mới, cần thẩm định những công trình ấy để chọn lấy những bản dịch xứng đáng nhất, có giá trị nhất cho đông đảo người đọc thưởng thức.
Chưa bao giờ số người yêu mến và tự nguyện nghiên cứu Nguyễn Du nhiều như ngày nay. Đó là dấu hiệu của một thời kỳ văn hóa đang bắt đầu thịnh vượng. Nên chăng đã đến lúc thành lập một Hội Nguyễn Du học hay Kiều học, đoàn kết mọi nhà nghiên cứu có tâm huyết, có năng lực, phấn đấu đưa sự nghiệp nghiên cứu di sản văn học của Nguyễn Du lên một bước mới. Thiết nghĩ về phía nhà nuớc có thể thành lập giải thưởng văn học quốc gia mang tên Nguyễn Du để trao cho những tác phẩm có giá trị nhất về văn học tiếng Việt.
0
0
(•‿•)
14/07/2019 12:26:22
Những người con gái có sắc đẹp khuynh nước khuynh thành như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành...

Vẻ đẹp của nàng làm lu mờ tất cả những gì được gọi là thanh tao nhất, đẹp nhất của thiên nhiên: đôi mắt trong thăm thẳm như làn nước mùa thu, nét mày thanh tú mơn mởn như rặng núi mùa xuân. Và vẻ tươi thắm của hoa, dáng vẻ yêu kiều mềm mại của liễu cũng phải “hờn”, phải “ghen” với người con gái tuyệt sắc đó.

Không chỉ đẹp ở tư dung bên ngoài, họ càng có đủ tài năng đức hạnh. Đó là Vũ Nương tính thùy mỵ, nết na, giữ gìn khuôn phép: chồng đi lính xa nhà, nàng ở nhà nuôi con phụng dường mẹ già và chung thủy chờ chồng. Đó là nàng Kiều với lòng hiếu thảo cao cả. Nàng sẵn sàng hi sinh thân mình để cứu gia đình thoát khỏi cơn nguy biến, chấp nhận mọi sóng gió của cuộc đời.

Với nhan sắc và phẩm hạnh cao quý như thế, đáng lẽ họ phải được sống một cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại rơi vào họ. Nỗi đau đớn nhất của người phụ nữ là gia đình tan vỡ và họ phải chịu nỗi giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Nỗi oan nghiệp đã đổ ụp xuống đầu Vũ Nương. Khi chồng nàng trở về, chỉ vì lòng ghen tuông mù quáng, nghi vợ đã có tư tình, bèn đuổi nàng đi, để nàng nhục nhã đến nỗi phải tìm đến với cái chết. Đến khi chồng nàng hiểu ra thì đã quá muộn màng. Ước mơ lớn nhất của nàng là một cuộc sống bình dị, nhưng hạnh phúc mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với nàng.

Với Kiều, người con gái mà “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, cuộc đời nàng còn gian truân, lận đận hơn nữa. Mối tình tuyệt đẹp giữa nàng và Kim Trọng - một văn nhân hào hoa, phong nhã - vừa mới chớm nở cũng là lúc nàng đau đớn dứt bỏ với tiếng kêu như xé lòng:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Chỉ sau một cơn gia biến, vì sự vu oan trắng trợn của thằng bán tơ, vì “ba trăm lạng việc này mới xong” mà nàng trở thành một món hàng để cho bọn buôn thịt bán người cò kè ngã giá:

Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Người đọc đã không nén được xúc động trước nỗi đau khổ dằn vặt của người con gái liễu yếu đào tơ ấy: “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Nhưng đó mới chỉ là mở đầu cho cả những chuỗi ngày đau khổ nhất của cuộc đời nàng. Trong những chuỗi ngày ấy, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần. Từ tay Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, vốn nổi tiếng là mụ chủ thanh lâu. Là con gái của gia đình Vương viên ngoại “gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung” vốn có dòng dõi cao quý, là một cô gái con nhà gia giáo, Thúy Kiều không thể chấp nhận trở thành gái lầu xanh. Nàng đã chịu bao trận đòn tàn khốc với Tú Bà, sau cùng Tú Bà lại bày mưu thuê Sở Khanh lừa nàng để buộc nàng trở thành một cô gái lầu xanh thực thụ. Bắt đầu những ngày ảm đạm nhất trong cuộc đời nàng Kiều. Từ một cô gái trinh trắng, đức hạnh, nàng đã trở thành món đồ cho bọn khách làng chơi. Nàng xót xa thay cho số phận của mình:

Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Không phải không có lúc dịp may đến với nàng. Nhưng đó chỉ là một chút ánh sáng lóe lên rồi chợt tắt ngấm khiến cho cuộc đời đen tối của nàng tưởng chừng hừng sáng nhưng rồi lại càng tối tăm, mịt mùng hơn. Ấy là khi nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, ái mộ tài sắc của nàng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng lại rơi vào tay vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư, một tiểu thư con quan, lại có thừa mưu mô xảo quyệt. Nàng đã bị tra tấn thật tàn nhẫn:

Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.

Hoạn Thư đã bày ra một cảnh thật ngang trái. Ngay trong đêm hàn huyên của hai vợ chồng mụ, nàng đã phải đánh đàn, hầu rượu, mua vui cho cả hai vợ chồng, để cho nàng đau đớn cả cõi lòng, “người ngoài cười nụ” mà “người trong khóc thầm”.

Đau khổ đến cùng cực, nàng đã định nương nhờ cửa Phật nhưng món nợ trần gian còn mãi đeo đẳng nàng. Nàng lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai và lại được Từ Hải - vị anh hùng của cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình cứu ra khỏi lầu xanh. Cuộc hôn nhân của hai con người “trai anh hùng, gái thuyền quyên” đó đã tưởng được bền lâu. Cho đến khi công thành danh toại “triều đình riêng một góc trời”, đã báo ân, báo oán, nàng lại rơi vào cái bẫy hiểm độc của Hồ Tôn Hiến khiến cho nàng vô tình tiếp tay cho kẻ giết chồng mình. Lúc Từ Hải chết cũng là lúc Kiều tắt hết niềm hi vọng: “Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi”. Ngay sau cái chết của chồng, nàng bị ép gảy đàn mua vui cho chiến thắng của chúng. Tên tổng đốc Hồ Tôn Hiến bỉ ổi làm nhục nàng và khi chợt tỉnh hắn đã không ngại ngần gả nàng cho một viên thổ quan. Lần này nàng tự tử và lại được cứu thoát. Nàng may mắn trở về gặp gia đình, gặp lại người tình xưa nhưng đối với nàng, cuộc sống lứa đôi không còn ý nghĩa. Đó là niềm an ủi cuối cùng của nàng Kiều như một lời nhận xét của một nhà phê bình văn học: Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những góa phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém.

Phản ánh những bi thảm của người phụ nữ, các nhà văn nhân đạo không thể giấu nổi tình cảm xót xa, đau đớn của mình. Nhiều khi tác giả đóng vai trò người ngoài cuộc nhưng cũng không thể bộc lộ cảm xúc:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)

Với nàng Kiều, người con gái đã được coi là biểu tượng của mọi nỗi đau khổ, Nguyễn Du dành cho tình cảm đặc biệt. Ông cũng nức nở như nàng khi mối tình đầu của nàng tan vỡ, cũng đau đớn khi bao làn roi quất lên da thịt nàng, cũng bao đêm cùng nàng thao thức: “Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy, năm canh”. Tình yêu thương con người đã khiến ông vượt lên chính bản thân mình. Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, ở một chừng mực nào đó, ông cũng là đại diện cho tầng lớp quý tộc phong kiến nhưng ông đã thẳng thừng lên án bọn quan lại, những kẻ đã gây nên cuộc đời đau khố cho nàng Kiều. Đối với những phường buôn thịt bán người, ông chủ trương trừng trị đích đáng tội ác của chúng ngay tại kiếp này chứ không phải chờ đến kiếp sau.

Viết về hình ảnh người phụ nữ là một sự tiến bộ vượt bậc của các tác giả văn học cổ Việt Nam. Khi phản ánh số phận của những người phụ nữ bất hạnh, các nhà văn đã không khỏi băn khoăn và tìm đến cách lí giải căn nguyên của những nỗi đau khổ đó. Tất nhiên sống trong xã hội còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những giáo lí phong kiến, việc lí giải những nỗi khổ của người phụ nữ không tránh khỏi những sai lệch. Nguyễn Du đã lí giải nỗi đau khổ của nàng Kiều là bởi “Tài mệnh tương đố” vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, “ông trời”, một thế lực tối cao vô hình vốn ghen ghét đối với những người đàn bà đẹp. Nhưng bằng hiện thực tác phẩm, Nguyễn Du đã lí giải khác hẳn. Những kẻ đê tiện, bỉ ổi, từng hãm hại cuộc đời nàng Kiều đã hiện lên rất thực, rất sinh động. Từ tên bán tơ giảo hoạt, mụ Tú Bà buôn thịt bán người hay viên quan xử vụ kiện nhà họ Vương ăn đút lót “Có ba trăm lạng việc này mới xong” tới tên tổng đốc trọng thần dâm ô, bỉ ổi Hồ Tôn Hiến ... cả xã hội hỗn loạn đó đã vùi dập cuộc đời nàng Kiều chứ không phải ai khác. Một thế lực tuy vô hình nhưng vô cùng tàn bạo cũng là nguyên nhân dẫn đến khổ đau của người phụ nữ, đó là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền làm đảo điên mọi sinh hoạt của xã hội. Chẳng thế mà đã bao lần nhà thơ đau đớn thốt lên:

- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
- Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong.

Những hủ tục phong kiến như nam quyền, chế độ đa thê cũng tạo nên khổ đau cho người phụ nữ. Đứng trước nỗi đau đớn ấy, nhiều nhà văn đã không thể né tránh trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Văn học thời kì này đã góp cho nền văn học Việt Nam một trào lưu văn học nhân đạo cao cả với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó cũng là khởi đầu cho mọi trào lưu nhân đạo sau này.

Những tác phẩm văn học đó cho ta thấy lại cả một quãng đời đau thương, tủi nhục của cả một tầng lớp người xưa trong xã hội và nỗi cảm thương sâu sắc đối với họ của những nhà văn nhân đạo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính cần được gìn giữ và lưu truyền.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư