Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Đề tài về người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa luôn là đề tài được các nhà văn đặc biệt quan tâm

4 trả lời
Hỏi chi tiết
4.787
2
0
Phương Dung
14/10/2017 20:58:42
Người phụ nữ xưa luôn luôn bị phân biệt đói xử bất công. Có lẽ chính bởi vậy mà có rất nhiều các áng văn thơ và cả trong văn học dân gian đều có những câu thơ than thân trách phận của người phụ nữ. Và ta có thể kể tên một số các bài thơ điển hình khi nói về thân phận của người phụ nữ như “Bánh trôi nước”. “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và bài thơ đặc sắc đầy cảm động của Trần Tế Xương “Thương vợ”.

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ đã có rất nhiều sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Nhà thơ tài năng Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.   Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ xưa

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Một chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh trôi được luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với cặp mắt đa sầu và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hóa sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Rồi thì còn là “Nữ nhân ngoại tộc”.   Rồi cả những luật Tam tòng hà khắc như đã cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Dường như những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy như đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn cả là chính điều đó đã biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Thân phận người phụ nữ lúc này chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn.   Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của biết bao nhiêu người phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non”.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ đã hi sinh và cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Dường như đã hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng tại sao lại gọi là “cái hồng nhan’, phải hiểu “hồng nahn” có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.

Những điều tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng về một  hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.

Một trong những bài thơ nói về thân phận của người phụ nữ đặc sắc nữa thì không thể bỏ qua bài “Thương vợ” của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là đây chính là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Việc phải tôn thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt.   Bà Tú vợ của Tế Xương vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Bà Tứ phải quanh năm, ngày ngày lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà việc nuôi một ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông chồng một  ít rượu ít trà, lại còn có ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều việc một lúc, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài cho số bà phải như vậy. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của đa phần phụ nữ thời xưa. Nhà thơ Trần Tế Xương không ngại ngàn khi từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Có thể nói bêên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Và cũng bởi vậy nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!   Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà như chẳng được nhờ vả, cậy dựa một chút gì xong nếu lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.

Thật dễ nhận thấy ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Thi sĩ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Phương Dung
14/10/2017 20:59:03

a. Khái quát

-    Giới thiệu về hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung.

-    Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ Trần Tế Xương.

b. Phân tích

Qua ba bài thơ, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa được thể hiện nổi bật ở những phẩm chất sau:

- Người phụ nữ chịu nhiều thiột thòi, gian nan, vất vả:

Ở bài Bánh trôi nước, đó là thân phận nổi nênh cũa người phụ nữ. Họ không có quyền quyết định tình duyên, thậm chí cuộc sống của mình. Đó là người phụ nữ mang dáng dấp của những người phụ nữ tội nghiệp trong ca dao.

Ở  bài Tự tình, đó là nỗi buồn về thân phận, về chuyện tình duyên, vể hạnh phúc gia đình - điều quan trọng và ý nghĩa nhất của người phụ nữ.

Ở bài Thương vợ, đó là hình ảnh người vợ lận lội, khuya sớm vất vả quanh nãm vì những gánh nặng gia đình.

- Người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp và nhiều khao khát yêu thương:

Trong hai bài thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ còn hiện lên nổi bật với niềm khát khao yêu thương và khát khao được yêu thương mạnh mẽ.

Ở bài Thương vợ, hình ảnh bà Tú hiện lên nổi bật với vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đó là sự chịu thương, chịu khó, đức hi sinh vì chồng con, vì gia đình.

2
0
14/10/2017 20:59:28
Hình ảnh người phụ nữ VN từ rất lâu đã trở thành đề tài hấp dẫn muôn thuở cho các nhà thơ, nhà văn. Đặc biệt qua các bài “Tự Tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương Vợ” của Trần Tế Xương chúng ta sẽ hiễu rõ thêm phần nào về thân phận của người phụ nữ thời xưa dưới chế độ phong kiến. Nhất là về phẩm chất cao quý và nỗi đau đến chua xót của những người phụ nữ thời bấy giờ.
Với bút pháp tả thực, từ ngữ giản dị đã gợi cho ta thấy được sự cô đơn lạnh lẽo trong cái không gian mênh mông thanh vắng đến trống trải của đêm khuya, âm thanh của tiếng trống như làm khuấy động bầu không khí yên tĩnh xung quanh và trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương. Từ ngữ "hồng nhan" như ám chỉ một người phụ nữ xinh đẹp, quyến rủ thế nhưng nó lại cứ "trơ" ra như là một sự mỉa mai. Hồ Xuân Hương đã mạnh dạng công khai một hiện thực hết sức bẽ bàng, chua xót mà bà đang nếm phải. Và cũng từ đó bà nhận ra được số phận của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến thối nát, với những quan niệm "trai thì năm thê bảy thiếp" đã làm cho người phụ nữ không có được một chỗ đứng trong xã hội, họ lo lắng cho thân phận trôi nổi cuả mình bởi họ không thể quyết định được duyên phận, số phận của bản thân họ.
Bà đã mượn rượu để quên tình đi, quên đi cái số phận hẩm hiu của mình, nhưng say rồi lại tỉnh lại càng buồn tủi hơn, đau khổ hơn và càng nhận ra cái vòng quẩn quanh trong cuộc đời thân phận thật sự của chính bản thân mình. Hình ảnh vầng trăng sắp tàn mà lại khuyết chưa tròn như ngụ ý một nhân duyên không trọn vẹn mà tuổi xuân thì cứ lạnh lùng trôi qua hết năm này qua năm khác mà không trở lại.
Khoảng không gian như được mở rộng hơn, xa hơn qua tầm nhìn của tác giả, những động từ "đâm", "xiên" của đá, rêu gợi lên một sức sống mạnh mẽ, dù đó là vật vô tri vô giác nhưng nó cũng có sức sống mãnh liệt đến nỗi nó cứ sống mãi sống mãi trong đôi mắt của Hồ Xuân Hương, cùng với sự bướng bỉnh thể hiện sự kháng cự đầy quyết liệt của Hồ Xuân Hương đã nói lên một nỗi khao khát được hạnh phúc, có được một mái ấm gia đình, được người chồng thương yêu chăm sóc chứ không phải ngồi một mình trong đêm khuya thanh vắng với sự cô đơn và lạnh lẽo trong nỗi buồn tủi.
Hồ Xuân Hương đã chán ngán, ngán ngẫm với nỗi cô đơn, buồn tủi, khi ngày này lại tiếp nối ngày khác, xuân này lại nối xuân khác mà qua. Tâm trạng chán chường trước một mảnh tình không được trọn vẹn mà phải "chia năm sẻ bảy" để rồi cuối cùng chỉ còn một mảnh "tí con con". Mặc dù Hồ Xuân Hương có bản lỉnh có giỏi gian như thế nào cũng không thoát khỏi được nghịch cảnh của số phận. Bởi người phụ nữ không hề có được địa vị trong xã hội này. Cái xã hội bất công "trọng nam khinh nữ", đã làm cho người phụ nữ điêu đứng, nhưng cũng từ đó những phẩm chất tốt đẹp của họ được bộc lộ rõ nét hơn…
Hoàn cảnh kiếm sống vất vả, lam lũ của bà Tú đã được giới thiệu rất rõ nét, thời gian cứ lặp đi lặp lại hết năm này sang năm khác, dù trời nắng hay mưa vả lại phải buôn bán ở mom sông là nơi nguy hiểm ẩn nấp, bà Tú phải làm việc vất vả, cực nhọc để "nuôi đủ năm con với một chồng" nói lên cái gánh nặng đôi vai, một bên là chồng, một bên là con .Đó không phải là một điều dễ dàng mà ai cũng có thể làm được.
Tác giả đã sữ dụng biện pháp tu từ đảo ngữ một cách tinh tế "lặn lội thân cò " vừa nói lên được cuộc sống vất vả tảo tần buôn bán ngược xuôi, vừa khắc họa rõ nét chân dung của bà Tú ở những nơi nguy hiểm vắng vẻ mà đáng ra việc đó phải dành cho người chồng, người cha, người trụ cột của gia đình thế nhưng bà Tú lại phải gánh lấy không một lời than phiền oán trách. Câu thơ còn gợi tả cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Buổi “đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy sự bắc trắc nguy hiểm.
Nói lên cái đức tính cao đẹp, giàu đức hy sinh, dù gian nan, vất vả thế nào thì cũng là duyên phận, bà Tú chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa, tủi cực chịu thương chịu khó vì chồng vì con, biết chịu thương chịu khó. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ trên đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp, tần tảo nuôi con của bà Tú nói riêng và người phụ nữ VN nói chung.
1
0
Phương Dung
14/10/2017 20:59:54
Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên than phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Đó là những người phụ nữ chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến “Tam tòng, tứ đức” ( tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và công dung ngôn hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ xưa, hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã thay họ nói lên tiếng lòng mình qua các bài thơ như: Tự tình, Bánh trôi nước, Thương vợ, …
Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập vào vũng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, nam quyền độc đoán, một xã hội “trọng nam khinh nữ”, một chế độ đa thê, … Họ gặp nhiều đau khổ, lận đận, tình duyên trắc trở, chịu cuộc đời làm lẻ, số phận hẩm hiu, éo le.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn nói lên nỗi lòng của những người phụ nữ xưa. Đó là những người phụ nữ duyên dáng, xinh xắn nhưng luôn bị phân biệt đối xử thậm tệ, không có quyền lựa chọn hạnh phúc của đời mình và luôn khát khao hạnh phúc lứa đôi. Trước một xã hội bất công, cảnh ngộ người con gái giàu sức sống và hết sức tài hoa, nhưng trớ trêu cuộc đời thật bất hạnh, số phận lận đận gian truân:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nỗi ba chìm với nước non”
Không chỉ thế nỗi đau thân phận con được nhắc đến ở bài : “Tự tình II”:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non (…)
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Một tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc, trong màn đêm vắng lặng. Sự bẽ bàng, tủi hổ, dầu dãi cay đắng là nỗi đau của Hồ Xuân Hương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Duyên phận họ thật hẩm hiu, hạnh phúc ít ỏi ( tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn như trăng xế mà vẫn khuyết). Mang cho mình một thân phận lẻ mọn, tình yêu bị chia năm xẻ bảy chỉ còn tí con con: “Mảnh tính san sẻ tí con con”.
Đối với Trần Tế Xương, ông đứng dưới khía cạnh một người đàn ông, cảm thông thương xót cho số phận của người phụ nữ bị đối xủ bất công, luôn chịu cơ cực gian truân nhưng không dám phản kháng. Họ luôn sống cam chịu, hi sinh cho chồng con:
“Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Câu thơ mang chất liệu ca dao, các hình ảnh “lặn lội”, “eo sèo”, “khi quãng vắng”, “buổi đò đông” thể hiện sự tủi thân của người phụ nữ, trước sự đơn chiếc, chen chút làm ăn vật lôn với cuộc sống để mưu sinh, nuôi chồng con. Người phụ nữ xưa khi về nhà chồng phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, chấp nhận không kêu ca, oán than (“Một duyên hai nợ âu đành phận – Năm nắng mười mưa dám quản công”) mặc dù rất vất vả, khổ cực. Hình ảnh bà Tú chính là chân dung của một người phụ nữ không quản khó khăn vì chồng vì con, là một hình ảnh tiêu biểu cảu người phụ nữ Việt Nam.
Qua đó, đã làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ Việt Nam xưa. Đồng thời phê phán cái xã hội thối nát, giận người đời bạc bẽo vô tâm (“Sau giận vì duyên để mỏi mõm mòm” – Tự tình I của Hồ Xuân Hương), giận cuộc sống đã đưa những người phụ nữ vào chỗ lẻ loi cô dơn, hiu hút:
“Oán hận trông ra khắp mọi chòm” (Tự tình I – Hồ Xuân Hương)
Họ oán hận trước nỗi đau âm ỉ, dai dẳng đốt cháy tâm can và tê tái nhất.
Trong thơ Hồ Xuân Hương ta luôn bắt gặp những hình ảnh người phụ nữ biết vượt lên số phận, không để nỗi đau làm mình gục ngã:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” (Tự tình II)
Quả thật, họ không bao giờ chịu khuất phục, luôn cựa quậy. Xuân Hương lại càng khẳng định”
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son” ( Bánh trôi nước)
Đúng là một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ với tấm lòng thủy chung, son sắc, quyết gìn giữ không để hoàn cảnh xã hội lam hoen ố, là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh và hãnh diện về chính mình. Và trong tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được hòa hợp trong một tình yêu trọn vẹn, mãnh liệt:
“Chém cha cái kiếp lấy cồng chung”
Nó thể hiện một niềm khao khát chính đáng của người phụ nữ ở mọi thời đại.
Đến với “Thương vợ” của Tú Xương nhìn với góc độ đạo lý, bà Tú đang tuân theo bổn phận làm vợ nhưng nhìn ở góc độ tình cảm, ta thấy bà làm tất cả vì chồng con mà không than thở, ở bà hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, chịu thương, chịu khó và đức hi sinh âm thầm vì chồng con.
Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở …
Ngày nay thân phận người phụ nữ đã chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình. Bởi lẽ cái xã hội “Trọng nam khinh nữ” đã bị xóa bỏ mà thay vào đó là một xã hội “công bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền”. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi vẻ thuần phong mỹ tục vốn có của mình. Và vẫn giữ được phẩm chất, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đảm đang tháo vác.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư