Trong những năm gần đây, khái niệm về nước biển dâng và biến đổi khí hậu không còn xa lạ ở Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu, trong đó nguyên nhân chính là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Biến đổi khí hậu đang làm cho các đại dương ấm lên. Nhiệt độ tăng làm tăng dung tích nước vốn có của các đại dương đồng thời làm cho băng tan từ các vùng Bắc cực và Nam cực, từ các khối băng trên núi cao. Hệ quả của các hiện tượng này là quá trình nước biển dâng.
Từ năm 1961 đến 2003 tốc độ bình quân mực nước trung bình ở các đại dương dâng lên khoảng 1,8 ± 0,5 mm/năm. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia của trường đại học Colorado ở Boulder (UCB)và dữ liệu của Cơ quan hàng không Mỹ (NASA) thì mực nước biển toàn cầu dâng lên khoảng 12 mm từ năm 2003 – 2010. Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) năm 2007 với kịch bản Biến đổi khí hậu A1B mực nước biển vào năm 2090 so với năm 1990 sẽ dâng lên trung bình từ 22 đến 44 cm.
Hậu quả của nước biển dâng là dẫn tới chuỗi các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều vùng đất bị ngập nước, đe dọa đến đa dạng sinh học, gây xâm nhập mặn làm ảnh hưởng đến chất lượng nước ngọt, giảm năng suất đất nông nghiệp…. Các quốc gia ven biển đang và sẽ chịu tác động của quá trình nước biển dâng. Chẳng hạn, kể từ năm 1990, mức nước biển tại bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ đã tăng thêm từ 2 đến 3,7mm mỗi năm và ở mức độ thế giới, sự gia tăng này là từ 0,6 đến 1mm. Nếu khí hậu tiếp tục ấm lên, từ nay đến năm 2100, mực nước tại bờ biển trên sẽ tăng thêm 30cm so với mức trung bình 1m của thế giới. Nếu vậy sẽ có khoảng 9% diện tích đất của hơn 180 thành phố ven biển nước Mỹ có nguy cơ bị ngập mặn. Còn ở Cuba - một quốc đảo, Cơ quan Môi trường Quốc gia Cuba (ANMA) cảnh báo nước này đứng trước nguy cơ mất khoảng 2.700km2 đất bờ biển và gần 10.000 nhà ở trong thời gian từ nay cho tới năm 2050 do mực nước biển dâng bất chấp những nỗ lực của chính phủ trong việc triển khai chương trình giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Với trên 3.000km bờ biển, Việt Nam được coi là quốc gia có mức độ dễ bị tổn thương cao hơn trước sự biến đổi khí hậu. Sự tác động của biến đổi khí hậu mà cụ thể là sự gia tăng của mực nước biển đang có xu hướng làm thu hẹp dần diện tích đất nông nghiệp của nước ta, đặc biệt là các vùng đất ven biển. Như ở Nam Định, từ 2005 đến nay, mực nước biển tại huyện Giao Thủy đã dâng cao thêm 20 cm. Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc bờ biển Việt Nam, trong giai đoạn từ 1998 – 2008, tốc độ dâng lên của mực nước biển ở Việt Nam là khoảng 3 mm/năm. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển tại Trạm hải văn Hòn Dấu dâng lên khoảng 20 cm.
Dự báo đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng lên 30C và mực nước biển sẽ tăng lên khoảng 1m. Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 90% diện tích trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam bị ngập vĩnh viễn, đồng nghĩa với khoảng 20% xã trên cả nước, 9.200 km đường bộ bị xóa sổ...Tại vùng đồng bằng duyên hải Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, mực nước biển dâng sẽ thu hẹp diện tích rừng ngập mặn, tạo điều kiện xói lở bờ biển, gây khó khăn cho nghề cá do những thay đổi theo hướng xấu đi của phần lớn nguồn lợi thủy sản. Diện tích sinh sống của các khu dân cư ven biển bị thu hẹp, khả năng xói lở bờ biển tăng lên, trực tiếp đe dọa các công trình giao thông, xây dựng, công nghiệp và một số đô thị trên nhiều tuyến bờ biển. Riêng đồng bằng sông Cửu Long, dự báo vào năm 2030, khoảng 45% diện tích của khu vực này sẽ bị nhiễm mặn cục độ và gây thiệt hại mùa màng nghiêm trọng do lũ lụt và ngập úng. Nếu không có kế hoạch đối phó, phần lớn diện tích của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập trắng nhiều thời gian trong năm và thiệt hại ước tính sẽ là 17 tỷ USD. Gần 6 triệu người – chiếm 7,3% dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp do hiện tượng ngập lụt khi nước biển dâng, 82,5% hệ thống cấp nước ở các vùng trũng Nam Bộ trong đó 71,7% là ở đồng bằng Sông Cửu Long và 10,8% ở Đông Nam bộ sẽ bị ảnh hưởng. Hiện tượng ngập lụt này sẽ dẫn tới sự thay đổi độ mặn của nước, thay đổi điều kiện sinh sống, sản xuất và đa dạng sinh học. Khu vực vùng núi tuy không chịu tác động trực tiếp của nước biển dâng nhưng chúng chịu những ảnh hưởng gián tiếp như: gia tăng các hiện tượng lũ ống, lũ quét, vấn đề về nước sạch và đất ở. Còn đối với khu vực miền núi, tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp của nước biển dâng nhưng lại chịu không ít các tác động gián tiếp như về an ninh lương thực, vấn đề nước sạch, vấn đề về chỗ ở và đất sản xuất….
Biến đổi khí hậu nói chung và nước biển dâng nói riêng không còn là nguy cơ mà nó đã hiển hiện trong cuộc sống, đang là thách thức không của riêng quốc gia nào. Vì vậy mỗi quốc gia, mỗi con người trên Trái đất cần có những hành động cụ thể để cứu lấy mái nhà chung như lời kêu gọi của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban-Ki-moon phát biểu tại Lễ khai mạc Năm Quốc tế các tiểu quốc đảo đang phát triển 2014 : “Trái Đất chính là hòn đảo chung của tất cả chúng ta, vì vậy hãy cùng nhau bảo vệ trái đất”.