Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Em hãy nêu công lao to lớn của Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông đối với lịch sử dân tộc ta

6 trả lời
Hỏi chi tiết
12.454
72
17
Huyền Thu
02/02/2018 21:32:02
Nguyễn Trãi không những là một nhà chính trị, quân sự tài ba, một anh hùng dân tộc mà còn là một danh nhân văn hoá thế giới. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị lớn về văn học, sử học, địa lí học như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú, Quốc âm thi tập, Dư địa chí...
Tư tưởng của ông tiêu biểu cho tư tưởng của thời đại, cả cuộc đời của Nguyễn Trãi, khi đánh giặc cũng như khi xây dựng đất nước hoặc sáng tác thơ văn, ông luôn nêu cao lòng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Ông thường suy nghĩ và mong muốn "ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày", "nơi thôn cùng, xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu".

- Những đóng góp của vua Lê Thánh Tông :
◦ Vua Lê Thánh Tông là người có công đóng góp làm cho bộ máy nhà nước Ngày càng đầy đủ và chặt chẽ hơn thời vua Lê Thái Tổ (vua Lê Thái Tổ và vua Lê Nhân Tông chia nước làm 5 đạo ,Lê Thánh Tông chia nước làm 13 đạo)

◦ Vua Lê Thánh Tông là người soạn thảo và ban hành Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức). Đây là bộ luật đầy đủ và tiến bộ nhất trong các bộ luật thời phong kiến Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
30
44
Trịnh Quang Đức
02/02/2018 21:33:35
Em hãy nêu công lao to lớn của Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông đối với lịch sử dân tộc ta
Trả lời:
- Nguyễn Trãi:
Ông xứng đáng được tôn vinh là người đặt nền cho văn học thời đại khai sáng, mở đầu cho nền thơ cổ điển Việt Nam. Ông là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa tư tưởng của thời đại Lý – Trần rồi vận động nâng cao lên rực rỡ hồi đầu thế kỷ XV, trong thực tiễn chiến đấu vệ quốc của dân tộc.

Với lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng vĩ đại, là danh nhân văn hoá, nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị và ngoại giao tài ba mà trải qua nhiều biến động của lịch sử, bao thế hệ vẫn tôn vinh và thừa nhận.

Với lịch sử văn học, Nguyễn Trãi là nhà khai sáng, tấm lòng và văn chương của ông rực sáng như Lê Thánh Tông ngợi ca “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (bài Minh lương, tập Quỳnh uyển cửu ca), là “núi Thái Sơn”, là “sao Bắc đẩu”, là người có tài “Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” (18), là “sông Giang sông Hán trong các sông, sao Ngưu sao Đẩu trong các sao” (19), là nhà thơ đặt nền móng cho giai đoạn khai sáng của nền văn học cổ điển Việt Nam.

Vị trí của Ức Trai tiên sinh có một không hai trong lịch sử dân tộc và trong văn học sử của mười thế kỷ thời trung đại. Ông rất xứng đáng là danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam như thế giới đã tôn vinh.
- Lê Thánh Tông:

Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông quan tâm nhất việc nội trị, an dân. Vua đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (tức 13 thừa tuyên), đặt các quan văn, quan võ phụ trách các ngành; củng cố lại các bộ, các viện, các ty nghiêm túc. Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang, cho đào kênh, khơi ngòi, mở mang đường sá, chợ búa làm cho muôn dân được phát triển an lành.. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban như: Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... Vua Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý về an ninh quốc phòng, bảo vệ bờ cõi giang sơn; lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ lại có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt. Ông là người chăm lo mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách chinh phục Chiêm Thành (năm 1471).

Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi chép lại việc Lê Thánh Tông là người quan tâm sâu sắc với việc bảo vệ giang sơn xã tắc, gìn giữ chủ quyền quốc gia. Trước những mối đe dọa bởi nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, không chỉ cảnh giác đề phòng mà một số lần Lê Thánh Tông chủ động cho quân Bắc phạt không phải để chiếm đất, giành dân mà để răn đe, làm nhụt tham vọng của giặc và đề cao sức mạnh của mình, như sự kiện năm Mậu Ngọ (1438) quân ta đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc), hay như tháng 6 năm Canh Tý (1480) quân ta tấn công Cảm Quả, chiếm ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào xứ Ban Động dựng rào chắn, sau đó tâu về triều đình, buộc nhà Minh phải sai sứ sang thương nghị. Trong những lần như vậy, vua Lê Thánh Tông đều cho người đi “biện bạch phải trái với nhà Minh”. Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông luôn kiên quyết ngăn chặn những hành động xâm phạm biên giới của quân Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trong việc tranh luận, đàm phán về vấn đề biên giới ông chủ trương mềm dẻo nhưng quyết không nhân nhượng, tháng 4 năm Quý Tỵ (1473) vua nói với các quan phụ trách việc biên cương, đứng đầu là Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được, ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc bày tỏ rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di” ( Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư). Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quốc gia Ðạị Việt đã được hoàn thành.

Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đã đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử. Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam TK XV. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, cũng là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo". Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn; ông còn xây kho chứa sách. Trong 38 năm làm vua, đất nước đã có 501 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ... Ông khởi xướng lập bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng bia để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc Đại Việt ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám để các thế hệ, các triều đình sau này tiếp tục bổ sung các tấm bia vinh danh mới. Các tác phẩm: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên"; truy phong cho Nguyễn Trãi chức Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu và bổ dụng người con trai còn sót lại của Nguyễn Trãi là Nguyễn Anh Vũ làm Đồng Tri Châu và cấp cho 100 mẫu ruộng làm nơi thờ cũng. Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"(Tấm lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê). Lê Thánh Tông còn là một nhà thơ lớn. Không chỉ làm thơ, mà vua còn sáng lập ra Hội Tao đàn Nhị thập bát tú gồm 28 học giả giỏi nhất Đại Việt thời bấy giờ. Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, thơ Lê Thánh Tông có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta thấy được một nhân cách lớn, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông. Đọc thơ ông còn thấy được khí phách cả một thời dân tộc đang vươn lên, đầy hào tráng. Các tác phẩm ông để lại rất phong phú, gồm 9 tập thơ chữ Hán, hàng trăm bài thơ chữ Nôm và văn xuôi hiện còn được chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...

4
30

Ông xứng đáng được tôn vinh là người đặt nền cho văn học thời đại khai sáng, mở đầu cho nền thơ cổ điển Việt Nam. Ông là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa tư tưởng của thời đại Lý – Trần rồi vận động nâng cao lên rực rỡ hồi đầu thế kỷ XV, trong thực tiễn chiến đấu vệ quốc của dân tộc.

Với lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng vĩ đại, là danh nhân văn hoá, nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị và ngoại giao tài ba mà trải qua nhiều biến động của lịch sử, bao thế hệ vẫn tôn vinh và thừa nhận.

Với lịch sử văn học, Nguyễn Trãi là nhà khai sáng, tấm lòng và văn chương của ông rực sáng như Lê Thánh Tông ngợi ca “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (bài Minh lương, tập Quỳnh uyển cửu ca), là “núi Thái Sơn”, là “sao Bắc đẩu”, là người có tài “Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” (18), là “sông Giang sông Hán trong các sông, sao Ngưu sao Đẩu trong các sao” (19), là nhà thơ đặt nền móng cho giai đoạn khai sáng của nền văn học cổ điển Việt Nam.

Vị trí của Ức Trai tiên sinh có một không hai trong lịch sử dân tộc và trong văn học sử của mười thế kỷ thời trung đại. Ông rất xứng đáng là danh nhân văn hóa của dân tộc Việt Nam như thế giới đã tôn vinh.

Vua Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tư Thành,(còn có tên khác là Lê Hậu) hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư của vua Lê Thái Tông, mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn , Khâm Thiên, Hà Nội ngày nay.

Tên tuổi và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn phát triển cường thịnh của đất nước. Sách “Các triều đại Việt Nam” của tác giả Quỳnh Cư- Đỗ Đức Hùng đánh giá về ông:“là ông vua ở ngôi gần như lâu nhất trong lịch sử Việt Nam(38 năm). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt cường thịnh thời đó”. Thời trẻ, Lê Thánh Tông với thiên tư thông minh và rất chăm chỉ học hành thể hiện con người có chí khí lớn. Việc lên ngôi vua của Lê Thánh Tông được sử sách ghi chép lại rất rõ. Khi Lê Nghi Dân- ông vua cướp ngôi bị lật đổ, các vị quan đại thần trong triều, đứng đầu là Nguyễn Xí, đều nhận định rằng Lê Tư Thành, thiên tư sáng suốt, hùng tài đại lược thật xứng đáng làm vua. Họ đã đem xe kiệu đến đón vua ở cung riêng (gọi là cung Gia Đế). Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng, văn hóa….

Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông quan tâm nhất việc nội trị, an dân. Vua đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (tức 13 thừa tuyên), đặt các quan văn, quan võ phụ trách các ngành; củng cố lại các bộ, các viện, các ty nghiêm túc. Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang, cho đào kênh, khơi ngòi, mở mang đường sá, chợ búa làm cho muôn dân được phát triển an lành.. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban như: Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... Vua Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý về an ninh quốc phòng, bảo vệ bờ cõi giang sơn; lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ lại có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt. Ông là người chăm lo mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách chinh phục Chiêm Thành (năm 1471).

Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi chép lại việc Lê Thánh Tông là người quan tâm sâu sắc với việc bảo vệ giang sơn xã tắc, gìn giữ chủ quyền quốc gia. Trước những mối đe dọa bởi nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, không chỉ cảnh giác đề phòng mà một số lần Lê Thánh Tông chủ động cho quân Bắc phạt không phải để chiếm đất, giành dân mà để răn đe, làm nhụt tham vọng của giặc và đề cao sức mạnh của mình, như sự kiện năm Mậu Ngọ (1438) quân ta đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc), hay như tháng 6 năm Canh Tý (1480) quân ta tấn công Cảm Quả, chiếm ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào xứ Ban Động dựng rào chắn, sau đó tâu về triều đình, buộc nhà Minh phải sai sứ sang thương nghị. Trong những lần như vậy, vua Lê Thánh Tông đều cho người đi “biện bạch phải trái với nhà Minh”. Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông luôn kiên quyết ngăn chặn những hành động xâm phạm biên giới của quân Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trong việc tranh luận, đàm phán về vấn đề biên giới ông chủ trương mềm dẻo nhưng quyết không nhân nhượng, tháng 4 năm Quý Tỵ (1473) vua nói với các quan phụ trách việc biên cương, đứng đầu là Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được, ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc bày tỏ rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di” ( Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư). Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quốc gia Ðạị Việt đã được hoàn thành.

Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đã đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử. Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam TK XV. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, cũng là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo". Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn; ông còn xây kho chứa sách. Trong 38 năm làm vua, đất nước đã có 501 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ... Ông khởi xướng lập bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng bia để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc Đại Việt ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám để các thế hệ, các triều đình sau này tiếp tục bổ sung các tấm bia vinh danh mới. Các tác phẩm: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên"; truy phong cho Nguyễn Trãi chức Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu và bổ dụng người con trai còn sót lại của Nguyễn Trãi là Nguyễn Anh Vũ làm Đồng Tri Châu và cấp cho 100 mẫu ruộng làm nơi thờ cũng. Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"(Tấm lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê). Lê Thánh Tông còn là một nhà thơ lớn. Không chỉ làm thơ, mà vua còn sáng lập ra Hội Tao đàn Nhị thập bát tú gồm 28 học giả giỏi nhất Đại Việt thời bấy giờ. Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, thơ Lê Thánh Tông có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta thấy được một nhân cách lớn, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông. Đọc thơ ông còn thấy được khí phách cả một thời dân tộc đang vươn lên, đầy hào tráng. Các tác phẩm ông để lại rất phong phú, gồm 9 tập thơ chữ Hán, hàng trăm bài thơ chữ Nôm và văn xuôi hiện còn được chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...

7
22
Là vị vua thứ năm của triều Lê, là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông và bà Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Vốn bà Tiệp Dư có mang Tư Thành bị bà phi Nguyễn Thị Anh mưu hại. Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp và đưa đi lánh nạn, sinh ra ông ở chùa Huy Văn (quận Đống Đa, Hà Nội). Thuở nhỏ Tư Thành sống ngoài cung, 4 tuổi được bà Nguyễn Thị Anh (lúc ấy là nhiếp chính cho vua Lê Thánh Tông) đón về phong vương, cho học hành cùng các thân vương. Cuối năm 1459, Nghi Dân cùng phe đảng giết chết mẹ con Nhân Tông đoạt ngôi vua. Giữa năm 1960, triều thần làm chính biến phế Nghi Dân lập Tư Thành. Ông lên ngôi năm 38 tuổi, đặt niên hiệu là Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Sử gia đời sau coi Thánh Tông là vị vua “tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược” (Vũ Quỳnh). Lê Thánh Tông là người yêu thơ văn, ông đã đề xướng các cuộc xướng họa cung đình, triệu tập 28 văn thần tạo thành tao đàn nhị thập bát tú. Ông là một nhà vua anh minh, có nhiều cuộc cải cách cả về chính trị lẫn văn hóa đánh dấu một giai đoạn phát triển rực rỡ của đất nước.

Lê Thánh Tông là miếu hiệu của Lê Tư Thành, con thứ tư, cũng là con út của vua Lê Thái Tông. Ông còn có tên là Hạo, hiệu là Thiên Nam Động chủ, sinh ngày 27/ 7/ 1442, tại nhà ông ngoại ở mạn tây nam Quốc Tử Giám, nay là khu đất chùa Huy Văn, Hà Nội. Sau khi Nhân Tông bị hãm hại rồi Nghi Dân bị lật đổ, ông được lên ngôi lúc mới 18 tuổi Lê Thánh Tông làm vua 38 năm với hai niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng Đức (1470 - 1497), là bậc vua anh hùng, tài lược, dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không hơn được (Toàn thư).

Là người yêu dân yêu nước thiết tha, khi ở ngôi, Thánh Tông tỏ ra là nhà tổ chức vô cùng tài giỏi, có tinh thần cải cách táo bạo và một ý chí tự cường dân tộc hết sức mạnh mẽ. Hành chính nước Đại Việt với 5 đạo từ thời Lê Thái Tổ, Thánh Tông chia thành 15 đạo, rồi đổi thành thừa tuyên. Dưới thừa tuyên là phủ, huyện, châu, tổng, xã. Hệ thống quan lại cũng được đặt lại từ trung ương xuống địa phương, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nhờ vậy, sự quản lý lãnh thổ chặt chẽ, biên cương được bảo vệ vững chắc. Trình độ quản lý đất nước đạt đến đỉnh cao, thể hiện rõ trong việc biên vẽ bản đồ quy mô toàn quốc. Các thư tịch cổ cho biết, từ thời Lý đã tiến hành việc đo đạc và biên vẽ bản đồ, thật tiếc là không còn lưu lại được đến nay. Còn bộ bản đồ thời Hồng Đức, dẫu chỉ còn lại những bản sao chép của các đời sau, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy một trình độ đáng khâm phục. Có thể thấy rõ trình độ vẽ bản đồ thời Hồng Đức đạt đến đỉnh cao của nhân loại đương thời, qua việc sau hai thế kỷ, Alexandre de Rhode đã đến nước ta và vẽ bản đồ nước ta. Đã có được kỹ thuật đồ bản phương Tây thế kỷ XVII, A. Rhode vẫn phải chịu ảnh hường rất nhiều, và trong chừng mực nào đó, còn không bằng bản đồ vẽ vào thời Hồng Đức. Bản đồ của A.Rhode vẽ không đặt theo trục Bắc - Nam như bản đồ của người phương Tây, mà cũng đặt chiều đứng theo trục Tây -Đông giống bản đồ Hồng Đức!

Cũng dưới triều Lê Thánh Tông, các chính sách mang tính khai phóng đã được tiến hành, như mở mang đồn điền, khai khẩn đất đai, khuyến nông, nuôi dưỡng sức nước trong việc làm tăng trưởng sức dân... tất cả đã tạo nên những thay đổi căn bản của quốc gia Đại Việt. Vệ quốc phòng, Thánh Tông cho tổ chức quân đội lại chặt chẽ và cơ động, thường xuyên được học tập binh pháp. Thánh Tông cho ban hành 43 điều luật quân đội, đưa quân đội vào một quy chế chặt chẽ và có sức chiến đấu cao. Thật là đặc biệt, Lê Thánh Tông canh tân mọi mặt một cách căn bản và đặt trên nền tảng cai trị bằng luật pháp. Một đỉnh cao tiêu biểu của pháp trị thời Lê Thánh Tông là cho ban hành bộ luật Hồng Đức. Ông đã nói với các đại thần: Pháp luật là phép công của Nhà nước, ta và các ngươi phải cùng tuân theo. Câu nói đó thể hiện một nét vĩ đại của tư tưởng Lê Thánh Tông. Bộ luật Hồng Đức chia làm 6 quyển, gồm 13 chương với 722 điều. Nhà bác học Phan Huy Chú từng đánh giá luật pháp thời Lê: Thật là cái mẫu mực để trị nước...

Đến đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long khi cho soạn bộ Hoàng Việt luật lệ cũng đã tham khảo và đánh giá rất cao bộ luật Hồng Đức. Đến những năm 90 của thế kỷ XX, trường Đại học Ohio, nước Mỹ đã cho dịch bộ luật và xuất bản bằng tiếng Anh toàn bộ văn bản cùng sự khảo cứu rất kỹ bộ luật Hồng Đức dày 3 tập. Và giáo sư Oliver Oldman, chủ nhiệm khoa Luật Á Đông của Đại học Harvard đánh giá rất cao luật Hồng Đức, coi nó là hệ thống luật tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức năng so với những quan niệm luật pháp Tây phương cận hiện đại...

Thời kỳ Lê Thánh Tông trị vì, xã hội phát triển mọi mặt, đất nước đạt tới đỉnh cao cường thịnh, để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc với những giá trị văn hóa xã hội vô cùng lớn: Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Hồng Đức hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập... Một việc có ý nghĩa lịch sử, ông làm năm 1464, là rửa oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn Nguyễn Trãi để lưu lại hậu thế, và Lê Thánh Tông như đã tạc bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ: Ức Trai tâm thượng quang khê tảo (Tâm hồn Ức Trai rực rỡ văn chương). Có thể nói, Thánh Tông đã có công lao tạo lập cho thời đại ông một nền văn hóa với diện mạo riêng, khẳng định bước phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Nền giáo dục khoa cử nước ta thịnh đạt đặc biệt và vai trò của trí thức được đề cao chưa có thời nào được như thời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn Lâm viện, Quốc Sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là các cơ quan văn hóa giáo dục lớn của đất nước, Thánh Tông còn cho xây Kho bí thư để chứa sách, và lập Hội Tao đàn do ông làm Tao Đàn nguyên súy, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Những trước tác của Hội Tao đàn được ghi chép trong bộ sách đồ sộ Thiên Nam dư hạp tập, và trong các sách Quỳnh uyển cửu ca, Minh lương cẩm tú, Hồng Đức quốc âm thi tập... Trong đó, không chỉ ghi chép thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình văn học, về lịch sử, kinh tế, quan chế, địa lý... Thánh Tông là người dẫn đầu phong trào lạ lùng cả về nghệ thuật thể hiện, cả về tư tưởng triết học. Thánh Tông di thảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng thành của truyện ký nước ta viết bằng chức Hán, ra đời trước cả tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI).

Về thơ, Lê Thánh Tông là một thi sĩ mang tầm vóc thời đại. Thơ ông là tiếng nói của một nhân cách lớn, một nhà tư tưởng lớn, một trái tim chứa đựng bát ngát núi sông và tràn đầy tự hào dân tộc: Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ… Phóng hết tầm mắt nhìn núi sông muôn dặm (Bài Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần về phía đông). Và bài Qua sông Bạch Đằng vừa hào sảng vừa có chiều sâu lịch sử: Cửa biển Bạch Đằng trời nước một màu - Nhớ mãi công cần vương của Hưng Đạo xưa... Ngày ấy xã tắc nhà Trần không suy chuyển - Núi sông nước Việt một thời vẫn như xưa. Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông tự trình bày mình:

Trống dời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.

Thật đẹp đẽ biết bao, hình ảnh một ông vua đứng đầu quốc gia với bao quốc sự bề bộn mà tay luôn cầm quyển sách, và có thể, phải đọc vào những buổi canh khuya. Nhà bác học Phan Huy Chú (1782-1840) đã ghi nhận về Lê Thánh Tông: tay không rời sách, Kinh sử, dịch số, toán chương đều tinh thông, văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi... (là vị vua) văn vũ tài lược hơn cả các đời.

Lê Thánh Tông thực sự là nhà văn hóa lớn của dân tộc. Và có lẽ, trên hết cả, bao trùm tất cả, là tấm lòng ông, là ý thức và trách nhiệm của ông trước dân tộc và đất nước, ước vọng và hoài bão của ông là: Thiên Nam vạn cổ sơn hà tại. Đó là câu thơ trong bài thơ khắc ở đá núi bài thơ Quảng Ninh. Câu thơ viết hơn năm trăm năm trước chắc mãi còn rung động lòng người hậu thế, bởi câu thơ đó mang khẩu khí một bậc đế vương hiền tài và xúc cảm của tâm hồn lớn.
10
12
NoName.268641
28/05/2018 20:05:38
HƠI DÀI MỘT CHÚT, NHƯNG CŨNG RẤT HAY, TUYỆT VỜI.
9
12
NoName.414859
14/02/2019 20:24:49
Nguyen Trai dau chi thay minh vua le thanh tong thoi doc met muon chet ma tim ko ra cong lao dong gop cua ong nguyen trai nua buc cai minh

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Lịch sử Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo