Dàn ý chi tiết
- Mở bài
Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 732 đến câu 756 trong Truyện Kiều, khởi đầu bi kịch cho quãng đời 15 năm trời lưu lạc của Thúy Kiều.
Kiều trao duyên cho Thúy Vân, gửi lại em gái những kỉ vật của mối tình chung. Nàng đau khổ khóc than cho mối tình đầu tan vỡ, cay đắng cảm thấy mình là con người phụ bạc.
- Phân tích
- Kiều cầu khẩn, van lạy em gái, cậy nhờ em gái “chịu lời”, nhận lời chịu uỷ thác một việc hệ trọng. Em gái đã trở thành ân nhân của chị gái. Kiều đã lấy “lễ” đối xử với em: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. “Lạy rồi sẽ thưa” – cử chỉ trang trọng, trang nghiêm.
Kiều thổ lộ với em mối tình đẹp với chàng Kim: “Chén thề”: chén rượu hai người cùng uống dưới trăng đêm tình tự thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. “Quạt ước”: chiếc quạt mà Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng. Đó là một mối tình đã thề nguyền thuỷ chung và đẹp.
Trước gia biến “sóng gió bất kì”, giữa tình và hiếu “khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Chị phải đặt chữ hiếu lên chữ tình. Chị phải trao duyên cho em bởi lẽ em là “tình máu mủ” của chị, hơn nữa cuộc đời em còn trẻ còn chứa chan hạnh phúc:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
“Lời nước non” là lời thề non hẹn biển; son sắt thuỷ chung. “Thay lời nước non” nghĩa là thay chị, em lấy chàng Kim trả nghĩa cho chàng.
Truyện Kiều Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thúy…, tìm đến nơi “di trú” của gia đình người yêu. Vương Ông khóc than nhắc lại lời Kiều trước lúc ra đi:
Dùng dằng khi bước chân ra
Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.
Trót lời nặng với lang quân,
Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
Gọi là trả chút nghĩa người
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên…
Qua đó, ta thấy tấm lòng quý hóa thơm thảo của Thúy Kiều. Nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Tình yêu dù tan vỡ nhưng nàng vẫn giữ lấy cái “nghĩa” với chàng Kim, “cậy em”… “thay lời nước non”. Chị có trải qua nhiều đau khổ “thịt nát xương mòn…” vẫn thơm lây về nghĩa cử của em.
- Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em. Trao duyên rồi vẫn còn vấn vương, đó là bi kịch tình yêu khi Kiều nói:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Đã trao duyên rồi, sao lại nói “vật này của chung?” Đó là quy luật của tình yêu, là nỗi đau của Kiều “con tằm đến thác vẫn còn vương tơ”.
- Lời than của Kiều não nùng thê thiết như lời trăng trối. Kiều nói đến “hồn”, đến “dạ đài”, nói đến một ngày mai bi thảm từ cõi âm trở về:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Tình yêu tan vỡ, Kiều xem như mình đã “chết”, chết trong đau khổ. Lời than của Kiều thấm đầy lệ.
- Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu đã tan vỡ, đã “trâm gãy bình tan”. Đau đớn khôn xiết kể cho “tơ duyên ngắn ngủi”, cho “phận bạc”… Kiều gửi lạy tình quân… Kiều cất tiếng gọi người yêu rồi ngất đi:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Trao duyên cho em để rồi ra đi mặc cho số phận “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều ngỡ rằng trả được nghĩa chàng Kim sẽ bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại càng vô cùng đau khổ. Nguyễn Du với trái tim nhân đạo mênh mông, ông đã ghi lại những biến thái tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của người con gái khi mối tình đầu tan vỡ. Ta cảm thấy ông là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ xúc động nhất trong Truyện Kiều, gồm những “câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình”.