LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu 2 luận điểm chính trong bài Người lái đò sông Đà và phân tích rõ

2 trả lời
Hỏi chi tiết
8.742
4
0
Thuỳ Linh
14/06/2017 09:52:04
2 luận điểm chính :

1. Luận điểm 1: Cảnh ven sông lặng tờ hoang dã
- Câu đầu của đoạn văn được bắt đầu bằng hình ảnh “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” gợi lên sự nhẹ nhàng êm ái. Câu văn ngắn gồm 6 âm tiết đều là thanh bằng tạo nên không gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du.
- “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần...thế mà thôi”
+ Hai chữ “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ, không gian vắn lặng nhưng không thể “lặng tờ” hơn được nữa du khách đang đi thuyền trên quãng sông này nhưng lại có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa xưa của những đời Lí, đời Trần, đời Lê.
+ Cái lặng tờ trầm tu đột ngột của con sông vốn đã ồn ào, mạnh mẽ gợi lên không khí thiêng liêng trang trọng cổ kính. Đó là dòng sông cổ thi “trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” mà ta đã từng bắt gặp trong trang thơ của Huy Cận, sông Đà con sông lịch sử đã từng chứng kiện một chặng đường oanh liệt, hào hùng của dân tộc ta trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, câu văn không tả mà nó có sức gợi mênh mong của thi ca.
- “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô...nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
+ Theo dòng trôi của con thuyền người đọc đi vào thế giới hoang sơ tĩnh mịch, Nguyễn Tuân láy lại cái điệp ngữ “thuyền tôi trôi” để gợi một dòng sông êm đềm, thơ mộng, ta tưởng như nhịp chảy của dòng sông đã hòa vào nhịp điệu của câu văn để ru hồn người “lạc vào thời tiền sử” đẹp như “một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
+Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ cũng thấy nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” dường như ở đó đã có dấu ấn của con người in trên cái màu xanh non mỡ màng ấy nhưng thật ngạc nhiên “tịnh không một bóng người”. Đoạn văn đẹp như một bức tranh lụa nhờ việc sử dụng rất nhiều định ngữ: “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “lá ngô non đầu mùa”...chính những hình ảnh thi vị ấy đãkéo dòng sông hiện đại trở về gần với thực tại hơn.
+Đặc biệt hai câu văn “bờ sông hoang dại ...bờ sông hồn nhiên...” khiến ta tưởng đây là hai vế của một câu song quan trong bài phú lưu thủy. Nghệ thuật điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ mà ta đã bắt gặp ở người nghệ sĩ một thời vang bóng này. Nguyên Tuân đã tìm về vẻ đẹp xưa trong cái ngày hôm nay. => tình yêu quê hương xứ sở.
+ Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà để trìu tượng hóa, thơ mộng hóa. Lời văn chứng tỏ sự tài hoa của cây bút bậc thầy về ngôn ngữ, ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên liên tưởng nhằm gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc để được cùng nhà văn tận hưởng cái vẻ đẹp hoang dại và hồn nhiên của bờ bãi sông Đà.

2. Luận điểm 2: Khao khát hướng tới tương lai của sông Đà
- Say đắm trong cái tĩnh mịch của dòng sông nhưng nhà văn vẫn “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu”
+ Có lẽ đây là cách làm duyên của Nguyễn Tuân cách nói vừa tô đậm ấn tượng về một không gian lặng lẽ, mơ màng đến độ phải “thèm giật mình” để rũ mình khỏi giấc mộng xưa.
+Qua đó Nguyễn Tuân còn gửi găm cái khao khát được gửi gắm sự đổi mới của đất Tây Bắc hoang dã trong không khí xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc trong những năm 1960.
- “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi án cỏ sương ...như tiếng bạc rơi thoi”
+ Những định ngữ “thơ ngộ, đầu nhung, cỏ sương...” giống như một chiếc đùa thần kì diệu chạm tới đâu thì ở đó sự vật như cựa quậy, sống động có hồn. Cái hoang dại không mất đi mà trái lại đêm đến cho người đọc một vẻ đẹp tươi tắn, tinh khiết văng vẳng trong không gian tĩnh lặng của đôi bờ sông đà là một tiếng “còi sương” ngân xa như mở ra một chân trời thơ bát ngát.
+ Cuộc đối thoại giữa ông khách sông khách sông Đà và con vật “lành” đích thực là một bài thơ trữ tình, nó chập chờn chơi vơi. Hươu hỏi người hay người tự hỏi một giả định vừa thực vừa ảo. Chỉ cần một nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi đã gợi trước mắt người đọc cái vẻ đẹp hoang dã hồn nhiên của con sông.
+ Hình ảnh “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” như manh sức nặng của một tâm hồn đang hòa vào cũng cảnh vật. Một câu văn có cả màu sắc, đường nét và đặc biệt cách miêu tả của nhà văn cũng vô cùng độc đáo. Biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể nghe thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật mình và ông khách sông Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.
- Thuyền tôi trôi trên “dải sông Đà bọt trắng lênh đênh...”. Đến đây tác giả đã phát hiện ra sông Đà với vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, vẻ đẹp đậm đà bản sắc văn hóa bởi nó được gắn với câu thơ rất mực tài hoa của thi sĩ Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Ở đây ta lại bắt gặp một giọng văn quen thuộc của nhà văn họ Nguyễn ông luôn nhìn sự vật dưới phương diện văn hóa, lịch sử, thẩm mĩ.
- Càng về xuôi sông Đà càng rộng thêm ra bởi vậy nhìn dòng nước lững lờ trôi mà ta như cảm thấy nó “nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc” và “con sông như đang lắng nghe giọng nói êm êm của người về xuôi”. Bằng tấm lòng với vẻ đẹp quê hương đất nước, nghệ thuật văn xuôi điêu luyện của Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc những khoái cảm được ngắm nhìn vẻ đẹp về con sông Đà nghệ sĩ lẵng mạn trữ tình.
=> Nhận xét, đánh giá cuối bài:
Nguyễn Tuân yêu Tây Bắc, yêu một trời hoa ban trắng, yêu ông lái đò nghệ sĩ, yêu con sông Đà hung bạo trữ tình...phải chăng đó là thứ tình yêu sông núi, yêu con người Việt Nam tài hoa dũng cảm. Và ông đến với sông Đà như một cái cớ, một cơ duyên để ông được thỏa thuê với khát vọng khám phá, khát vọng thể hiện cái tôi trữ tình nghệ sĩ của mình.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
8
2
Đặng Quỳnh Trang
14/06/2017 10:03:04
* 2 luận điểm chính là:
- LĐ 1: Cảnh ven sông lặng tờ hoang dã
- LĐ 2: Khao khát hướng tới tương lai của sông Đà

* Phân tích:
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút "Người lái đò sông Đà". Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" dược in trong tập tuỳ bút "Sông Đà" (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là "thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc."

Qua "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:

"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.

Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư