CÁCH LÀM BÀI VĂN THUYẾT MINH
1. Tri thức để làm bài văn thuyết minh
Bài văn thuyết minh là bài cung cấp tri thức cho người đọc (người nghe) để họ có thể hiểu, nắm được đặc điểm, bản chất một sự vật, hiện tượng nào đó. Vì thế muốn thuyết minh được mạch lạc, rõ ràng, người viết phải có vốn tri thức nhất định về điều mình viết. Muốn có tri thức, người viết phải trực tiếp tìm hiểu sự vật, quan sát, ghi chép, hỏi những người am hiểu,… Đó là cách tích luỹ kiến thức trực tiếp. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề cần thuyết minh đều đòi hỏi phải đi thực tế và cũng khó mà đi thực tế. Bởi vậy, tri thức cũng có thể tích luỹ một cách gián tiếp thông qua sách vở, thông qua mạng in-tơ-nét,… Cũng có khi phải kết hợp sử dụng các nguồn tri thức với nhau.
2. Quy trình làm bài văn thuyết minh
Bài văn thuyết minh cũng được làm theo quy trình chung của một bài tập làm văn, gồm 4 bước : tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài và sửa chữa. Muốn viết được bài văn thuyết minh thành công cần phải tìm hiểu đề và tìm được các ý cho bài viết. Sau khi tìm được ý, phải chọn phương pháp thuyết minh cho phù hợp. Sau đó là lập dàn ý và viết bài. Trong khi viết, có thể bổ sung, thêm bớt ý cho dàn bài hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là sửa lại bài viết, nhất là sửa các lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp.
3. Các phương pháp thuyết minh
Đối với bài văn thuyết minh về sự vật, hiện tượng có thể sử dụng những phương pháp thuyết minh sau đây :
a. Phương pháp nêu đinh nghĩa, giải thích
Đây là phương pháp thuyết minh khá phổ biến. Người thuyết minh sẽ xác định đối tượng thuộc loại sự vật, hiện tượng gì, đặc điểm của nó là thế nào. Chẳng hạn, nếu văn bản trữ tình chú ý đến vẻ đẹp của Huế: Đường vô xứ Huế quanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ – Ai vô xứ Huế thì vô (Ca dao) thì văn bản thuyết minh chú ý đến việc nêu vị trí vai trò của Huế : Huế là cố đô của nước ta, là một trung tâm văn hoá, nghệ thuật của miền Trung và cả nước.
Khi nêu định nghĩa hay giải thích, người viết cần chú ý đến giới hạn chính xác. Không định nghĩa quá hẹp hay quá rộng sự vật khiến cho người khác khó hình dung và khó hiểu.
b. Phương pháp liệt kê
Đây là một cách để người viết trình bày những tri thức liên qua đến sự vật, hiện tượng được thuyết minh. Chẳng hạn, thuyết minh về cây dừa, tác giả Hoàng Văn Huyền viết: Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con người: thân cây làm máng, lá làm tranh, cọng lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già làm chõ đồ xôi, nước dừa để uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm,... (Ngữ văn 8, tập một, trang 114). Như vậy, tác giả đã liệt kê về sự cống hiến của cây dừa. Trong khi nói về nước dừa, tác giả lại liệt kê những ích dụng của nó: để uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm.
c. Phương pháp nêu ví dụ
Để thuyết minh, người viết có thể nêu ra một ví dụ có tính chất tiêu biểu. Ví dụ càng độc đáo, càng chính xác và được đưa ra đúng lúc, đúng chỗ thì sức thuyết phục càng cao. Nói về khả năng, gây bệnh ung thư của thuốc lá, tác giả Nguyễn Khắc Viện (trong bài Ôn dịch thuốc lá) nêu ví dụ : Thấm vào các tê bào, chất hắc ín lại thường gây ra ung thư. Ta đến bệnh viện K sẽ thấy rõ : Bác sĩ viện trưởng cho biết trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá. (Ngữ vãn 8, tập một, trang 119)
d. Phương pháp dùng số liệu (con số)
Thật ra, nêu các con số cũng là một cách nêu ví dụ. Nhưng ở đây nhấn mạnh đến ý nghĩa của con số. Các con số thống kê tự bản thân nó đã có ý nghĩa lớn, gây ấn tượng mạnh mà không cần phải thuyết minh thêm. Trong bài Đấu tranh cho một thế giới hoà bình, G. Mác-két sử dụng việc nêu số liệu rất ấn tượng : Một ví dụ trong lĩnh vực tiếp tế thực phẩm : Theo tính toán của FAO, năm 1985, người ta thấy trên thế giới có gần 575 triệu người thiếu dinh dưỡng. Số lượng ca-lo trung bình cần thiết cho những người đó chỉ tốn kém không bằng 149 tên lửa MX… Chỉ cần 27 tên lửa MX là đủ trá tiền nông cụ cần thiết cho các nước nghèo để họ có được thực phẩm trong bốn năm tới. (Ngữ văn 9, tập một, trang 18)
e. Phương pháp so sánh
So sánh là một biện pháp nhằm làm cho người đọc, người nghe hình dung rõ , sự vật được nói tới. So sánh là một trong ba thể tiêu biểu để triển khai nội dung của một bài ca dao : phú, tỉ (so sánh) và hứng. Diễn tả vẻ đẹp của cô gái, ca dao viết :Cổ tay; em trắng như ngà – Con mắt em sắc như là dao cau. Ngà làm cho ta cảm nhận được màu trắng cổ tay, dao cau giúp ta cảm nhận được độ sắc của cặp mắt. Nhờ so sánh mà đối tượng được hình dung rất cụ thể, sính động.