Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài Đọc tiểu thanh kí

phan tích bài đọc tiểu thanh kí rõ ràng. ve phần mở phải có đầy đủ về tác giả Nguỹên Du
4 trả lời
Hỏi chi tiết
800
0
0
....^_^....
25/12/2017 08:36:04

“Độc Tiểu Thanh ký” là một câu chuyện đời được kể bằng mấy câu thơ cô đọng hàm súc của Nguyễn Du. Có thể coi đây là bài thơ bằng chứ Hán hay nhất của ông in trong tập Thanh hiên thi tập. Bài thơ chính là tiếng lòng tiếc thương, xót xa cho số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh.

Bài thơ độc Tiểu Thanh ký được lấy cảm hứng từ câu chuyện cảm động của người con gái sống vào đầu đời nhà Minh. Nhưng vì gia cảnh nghèo khó, éo len nên nàng được gả vào một gia đình giàu có, làm lẽ đến hết đời. Tuy nhien vợ cả ghen tuông nên đã cho nàng ở tách biệt trong ngôi nhà ở núi Cô Sơn. Trong những năm tháng sống ở đó, bà đã có hàng trăm bài thơ thổ lộ nỗi niềm, tình cảnh cô đơn lẻ bóng của mình. Ít lâu sau đó, nàng vì quá buồn bã mà chết trong lúc tuổi đời còn quá trẻ. Vợ cả đã đốt đi hết những bài thơ nàng viết, tuy nhiên còn sót lại một số bài, mà sau này người ta bảo chép lại và đặt tên là “Phần dư” để ghi chép lại cuộc đời đầy oan nghiệt của nàng.

Nguyễn Du khi bắt gặp những bài thơ ấy đã nảy sinh lòng trắc ẩn, xót thương cho than phận tài hoa bạc mệnh. Và qua nhân vật này, ông phản chiếu vào cuộc đời mình, nhận ra cuộc đời có quá nhiều bất công, khổ ải.

Nguyễn Du đã mở đầu bài thơ bằng cách gợi ra không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Hai câu thơ có sức gợi, sức ảm ánh rất lớn, khiến người đọc tưởng tưởng ra không gian, khung cảnh rất xa xa – nơi người con gái bạc mệnh đã từng sống. Tây Hồ là nơi cảnh đẹp hữu tình nhưng lại hóa gò hoang váng,  heo hút vì có người con gái mãi mãi chon vùi tuổi thanh xuân của mình ở đây.

Những tâm sự chồng chất ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ đẫm nước măt. Hình ảnh người con gái có chồng cũng như không, một mình vò võ, “thổn thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn viết nên tâm sự đau lòng. Không còn gì buồn và thê thảm hơn khi “có chồng hờ hững cũng như không”. Cuộc đòi của những người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa trong xã hội phong kiến dường như đều bị chà đạp như thế.

Nguyễn Du có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của nàng, còn phảng phất cho đến tận bây giờ.

Ông xót xa cho than phận bạc mệnh đó

Son phấn có thần chon vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương

Hai câu thơ này đã toát lên sự xót xa, chua xót đến tột độ của Nguyễn Du khi nghĩ đến người con gái mệnh bạc ấy. Đã 300 năm trôi qua nhưng hình ảnh của nàng vẫn còn vương vấn, khiến người đòi về sau không khỏi xót thương. Tác giả dùng từ « son phấn » để chỉ nhan sắc của người con gái dù có xinh đẹp bao nhiêu thì cũng bị vùi dập, chà đạp không tiếc thương, cuối cùng đành ôm hận mà chết. Những trang thơ mà nàng viết,  bị người ta đốt cháy hết thì nó vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay.

Hai câu luận đã thể hiện được sự đồng cảm, xót xa cho thân phận tài hoa này :

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang

Hai câu thơ cất lên đầy sự tuyêt vọng, ai oán và u sầu nặng nề. Hỏi trời cao, trời không thấu, trách kẻ bạc tình, người không hay. Nguyễn Du thốt lên một câu hỏi đầy chua xót nhưng nhận về mình nhiều khổ đau. Những người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp tư xưa đến nay dường như đã mang trong mình cái « án » oan nghiệt, không thể rũ bỏ được.Hay chính xã hội phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng nhiều chua cay như thế này.

Và ở hai câu kết, tác giả đã vận vào bản thân mình, vận sự bạc mệnh của người phụ nữ tài hoa ấy

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng ?

Một câu hỏi tu từ đầy ngậm ngùi và chua xót khi nghĩ đến cảnh mình sau 300 năm nữa. Tiểu Thanh sau 300 năm vẫn khiến người đọc xót xa, day dứt, nhưng liệu rằng mình có còn được như thế, hay hóa thành cát bụi.

Câu hỏi đậm giá trị nhân văn, ông muốn hỏi dò tâm ý của mọi người khi nghĩ đến số phận của những người tài hoa sau một thời gian dài sẽ như thế nào. Từ số kiếp tài hoa bạc mệnh của Tiểu Thanh, ông đã liên tưởng đến cuộc đời nhiều sóng gió của bản thân mình. Câu thơ còn khiến cho người đọc phải nghĩ, phải day dứt và xót xa trăm nghìn lần.

Bài thơ « Đọc tiểu thanh ký » của Nguyễn Du là một kiệt tác để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm thương cảm về số phận bất hạnh của nhiều người trõng xã hội, lên án xã hội chà đạp lên nhân phẩm của họ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Học tốt là số 1
25/12/2017 08:36:20

Nhắc đến Nguyễn Du, ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến “Truyện Kiều” bởi đây là một tác phẩm kiệt xuất của thơ ca trung ca trung đại Việt Nam. Song, ngoài “Truyện Kiều” Nguyễn Du cũng còn sáng tác nhiều bài thơ thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với những thân phận hồng nhan nhưng bạc mệnh. Trong số các bài thơ đó thì “Độc Tiểu Thanh kí” là bài thơ tiêu biểu hơn cả.

Bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật về một cô gái sống vào đầu đời nhà Minh. Cô gái ấy tên là Tiểu Thanh, nàng có nhan sắc vẹn toàn, cầm kì thi họa đều giỏi cả. Thế nhưng nhà nghèo cho nên nàng được gả vào làm vợ lẽ một nhà giàu. Vì bị vợ cả ghen tuông, bắt nàng ra sống riêng ở Cô Sơn, gần Tây Hồ. Trong những ngày tháng cô quạnh đó, nàng Tiểu Thanh đã viết thơ để bày tỏ tình cảnh và nỗi lòng mình. Ít lâu sau, nàng vì quá muộn phiền mà qua đời khi mới mười tám xuân xanh. Người vợ cả đã đem đốt hết những bài thơ của nàng, tuy nhiên một số bài vẫn còn xót lại. Người ta vì thấy thơ hay nên chép lại và đặt tựa là “Phần dư tập”.

Nguyễn Du khi đọc được những bài thơ của nàng Tiểu Thanh đã rất đồng cảm, thương thay cho một thân phận tài hoa nhưng bạc mệnh. Thương cho nàng Tiểu Thanh, tác giả cũng nghĩ đến chính bản thân mình, và từ đó ông cũng nhận ra cuộc đời là đầy rẫy những bất công, khổ ải.

Ngay từ mở đầu bài thơ, không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống đã gợi lên một nỗi buồn xa vắng:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Đọc lên hai câu thơ, người đọc hình dung đến một khung cảnh hoang vắng nào đó của miền sơn cước. Ở đó, chỉ duy nhất có một người con gái lẻ loi ngồi bên lầu. Tây Hồ cảnh tuy đẹp nhưng lại hóa gò hoang vắng, quạnh quẽ, đìu hiu. Một cô gái tuổi còn xuân xanh mà phải chôn vùi ở một nơi heo hút thế này sao không buồn bã cho được.

Những nỗi lòng buồn hận ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ bi ai, tha thiết. Hình ảnh “thổn thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn còn gợi nhắc về câu chuyện nàng bị người vợ cả ghen tuông đem đốt hết những vần thơ ấy. Để bây giờ chỉ còn lại những “mảnh giấy tàn” nhưng đủ sức làm cho người ta phải cảm thấy thương tâm bởi những “thổn thức” đau đáu không biết giãi bày với một ai của nàng Tiểu Thanh. Có lẽ, số phận của nàng cũng là số phận chung của rất nhiều cô gái trong xã hội phong kiến ngày đó. Cuộc đời của những người tài giỏi, tài hoa thường hay bị vùi dâp và chà đạp đến thương tâm.

Những tâm tư đau khổ của nàng Tiểu Thanh dường như vẫn còn sức ám ảnh rất lớn, cho nên Nguyễn Du mới có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của người con gái bạc mệnh ấy:

Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương

Tác giả dùng từ “son phấn” để chỉ sắc đẹp của người con gái. Thế nhưng cái đẹp, cái tài ấy lại bị vùi dập không thương tiếc. Mảnh giấy tàn như vẫn còn vương vấn những u buồn và uất hận bởi nàng phải chết khi còn quá trẻ. Chính vì phải chết khi còn quá trẻ cho nên người đời không khỏi xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh của nàng. Không những thế, những trang thơ mà nàng viết để bày tỏ nỗi lòng cũng bị người ta đốt cháy hết. Chỉ còn lại một phần những mảnh giấy tàn là còn lưu lại đến ngày nay. Có thể thấy rằng, xã hội phong kiến không chỉ cướp đi tuổi xanh của người con gái mà còn muốn vùi dập, bóp chết một tài năng.

Đến đây, nhà thơ Nguyễn Du không khỏi thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang

Một sự tuyệt vọng, bi ai oán và u sầu xoáy tận tâm can! Nỗi oan trái của người con gái đem hỏi trời cao, trời cao không thấu, trách kẻ bạc tình, người nào có hay. Nỗi oan trái ấy dường như đã trở thành cái “án” của những người tài hoa. Tài hoa nhưng bạc mệnh. Hiểu rõ điều đó, Nguyễn Du thốt câu hỏi để rồi nhận ra thực tế đầy chua xót. Đó là cái số phận sinh ra đã thế hay chính cái xã hội phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng oan trái như vậy? Câu trả lời có lẽ sẽ khiến người đọc phải day dứt và ám ảnh mãi không thôi.

Và ở hai câu kết, từ sự bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh, tác giả đã vận vào số phận của mình và để lại cho người đọc một câu hỏi chất vấn về số phận của những con người tài hoa:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Một câu hỏi mà chứa đựng rất nhiều xót xa, ngậm ngùi. Ba trăm năm sau những vần thơ của nàng Tiểu Thanh vẫn còn khiến người đời thương cảm. Thế nhưng liệu rằng ba trăm năm sau có “ai khóc Tố Như chăng?”. Câu hỏi như xoáy vào tâm can của người đọc. Người đời còn nhớ hay sẽ quên những số phận tài hoa bạc mệnh thương tâm như thế này? Vào thời điểm đó, thực sự đây là một câu hỏi hãy còn để ngỏ. Thực tế đã chứng minh cho đến ngày nay, đã qua ba thế kỉ mà chúng ta vẫn còn nhớ và nhắc đến tài năng Nguyễn Du. Điều này đã cho thấy, dù là trải qua bao nhiêu thời gian thì tài năng và những giá trị của những người kiệt xuất vẫn luôn được trân trọng và cảm thông.

“Độc tiểu thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng muốn nói lên thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và hòng bóp chết những tài năng của họ.

0
0
Quỳnh Anh Đỗ
25/12/2017 13:00:13
Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.
Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.
Phiên âm chữ Hán:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ Tiếng Việt:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)
Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:
Độc điếu song tiền nhất chi thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?
Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.
Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.
Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.
Đến hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.
Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái ăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.
Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng ? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chi khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.
Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?
Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỉ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,/ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.
Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
0
0
Moon'ss Trần
26/12/2017 19:43:32
Nhắc đến Nguyễn Du người ta thường nghĩ ngay đến thiên cổ tình thư: Truyện Kiều của ông. Điều ấy có lí do của nó. Truyện Kiều là một thành công kiệt xuất của thơ ca tiếng Việt. Nhưng bên cạnh Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du còn làm rất nhiều thơ chữ Hán có giá trị – cũng vò xé, cũng nhức nhối lòng người không khác gì khúc nam âm tuyệt xướng ấy. Độc Tiểu Thanh Kí là bài thơ chữ Hán trác tuyệt, sinh hoa diệu bút của đại thi hào Nguyễn Du, được xếp trong Thanh Hiên Thi Tập. Bài thơ đã bộc lộ một cách sâu sắc cái nhìn cảm thông của tác giả trước những thân phận tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội cũ và dường như đó còn là bức thông điệp tình thương, nỗi nhói buốt can tràng của muôn đời.
Ôi Tiểu Thanh, nàng là ai vậy? Con tạo hoá vốn yêu thương tài sắc, nàng đã biết thế hay chưa? Người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo làm trò quanh quẩn. Chuyện của đời nàng sao nhiều uẩn khúc phải chăng cũng là chuyện của bao người tài tình chi lắm cho trời đất ghen trong xã hội phong kiến kéo đài hàng mấy trăm, mấy nghìn năm xưa. Xã hội ấy đâu có dung nổi những người tài sắc, đa cảm khiến những người như Đỗ Thập Nương phải làm kĩ nữ, những Thuý kiều phải bán mình. Truân chuyên lận đận… hay những Lâm Đại Ngọc của Tào Tuyết Cần – than ôi cái đẹp thì mong manh và yểu mệnh, tài sắc thì dễ bị dập vùi. Chắc nàng Tiểu Thanh phải có nét mặt sầu rầu như Bao tự. Nàng sống vào đầu đời Minh – Tức là từ năm 1368 đến năm 1644. Nàng là người tài sắc, có chổng nhưng hẩm hiu thay chỉ là vợ lẽ. Tài sắc của nàng, bị vợ cả ghen tuông đọa đày cho hả dạ. Nàng bị bắt phải sống một mình trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu đau buồn mà chết, bấy giờ mới mười tám tuổi. Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương, câu thơ viết về Đạm Tiên ấy không chỉ vận vào nàng Kiều mà còn là chuyện của những người con gái có tài sắc mà bị ghen ghét, đến nỗi văn chương cũng bị vạ lây như nàng Tiểu Thanh nước Trung Hoa. Khi Tiểu Thanh còn sống, nàng làm rất nhiều thơ bộc bạch những lởi gan ruột – chắc thơ cũng như người, hay nhưng thấm đẫm nỗi buồn, uất hận – nhưng khi nàng chết người vợ cả chưa tắt lửa hờn ghen nên tìm lục đất thơ nàng hòng xoá sạch dấu vết. Sau khi nàng vĩnh viễn không còn làm thơ trên cõi trần này nữa, nhiều người thương tiếc bới trong đống tro tàn chỉ còn sót lại vài bài làm thành một tập thơ mà người đời gọi là phần dư cảo.
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung
(Truyện Kiều)
Phải chăng đó là giọt nước mắt xót thương của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của Đạm Tiên, của Kiều, của Long Thành cầm giả ca, của Ngô Gia đệ cựu ca cơ và bây giờ là Tiểu Thanh? Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của mối đồng cảm đặc biệt mang những nỗi ám ảnh, ngậm ngùỉ về thân phận con người. Bài thơ thất ngôn bát cú xinh xắn Độc Tiểu Thanh ký đã bộc lộ những cảm xúc rất trần gian, rất con người tức là Tất nhân văn của một nhà thơ lớn Việt Nam sau khi đọc phần dư cảo ấy. Bài thơ là cả một biển trời tình thương và nếu muốn lấy dẫn chứng về cách viết thơ hàm súc dư ba thì không thể không coi bài thơ này là một mẫu mực. Đọc xong bài thơ rồi, cảm xúc trong lòng ta như vẫn con vang ngân, khắc khoải, day dứt. Sống ở trên đời có được thứ tình cảm cao thượng ấy thật quý vậy thay!
Từ đầu đời Minh, cái lúc nàng tiểu Thanh sống và chết, cái lúc nàng quằn quại trong cái ghen kiểu Hoạn Thư tàn nhẫn đến lúc này, Nguyễn Du không phải đứng trước mộ nàng mà chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ. Theo nghiên cứu của nhà phê bình Tương Chính, khi đi sứ ở Trung Quốc năm 1838, Nguyễn Du không vượt sông Trường Giang, không đến Tây Hồ nơi có núi Cô Sơn, mộ nàng Tiểu Thanh, mà xuôi thuyền theo dòng Trường Giang về Võ Xương – khi Nguyễn Du viếng di chỉ của một người mệnh bạc, thời gian đã hơn ba trăm năm. Ba trăm năm thật quá đủ để một người bị lãng quên, đủ để nương dâu thành bãi biển. Nhưng đối với cả hai con người ấy lại khác, họ có mối đồng bệnh tương lân. Một người con gái như Tiểu Thanh lẽ nào lại không lưu lại trong lòng hậu thế những nỗi day dứt dằn vặt khổ đau? Một người có trái tim lớn như Nguyễn Du lẽ nào lại dửng dưng, thờ ơ trước lời xưa của một hồn đau vọng về? Và Nguyễn Du đã viết Độc Tiểu Thanh ký với tất cả tấm lòng. Phải trên hết là tấm lòng, sau đó mới là dụng công nghệ thuật. Bởi lấy tấm lòng để hiểu tấm lòng, mới thấu được những lòng đau. Mở đầu bài thơ Nguyễn Du viết:
Tây Hồ hoa uyển tận thành thư
Độc điếu song tiền nhất chi thư.
Dich giá Vũ Tam Tâp dịch là:
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
 
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào
Nếu Thuý Kiều đến với Đạm Tiên trước nấm đất sét sè sè bên đường, thì ở bài thơ này, nhà thơ đến với Tiểu Thanh đáng thương trước hái di vật: cái gò hoang tức núi Cô Sơn, nơi trước đây nàng bị vợ cả hắt hủi và mảnh giấy tàn tức những bài thơ não nùng tâm can sót lại. Từ hai di vật này, Nguyễn Du đã phi lộ và tạo cho mình nguồn cảm hứng sâu xa. Xưa viếng Đạm Tiên, nay viếng Tiểu Thanh – cùng một lứa bên trời thân cận Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói đúng: Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Tài thơ của Tiểu Thanh thời ấy có ai biết đến, có ai ngưỡng mộ ngợi khen, hay phải chịu lụi tàn bởi ngọn lửa bất nhân tình: tình của Tiểu Thanh thời ấy, có được đền đáp trọn vẹn hay không, hay là phải gánh chịu cái ghen ngút trời. Cái căn nguyên ấy thật xót xa. Hồ Tây đẹp là như vậy, giờ Tiểu Thanh chết rồi, bên cạnh mồ của nàng, núi Cô Sơn trở nên lạnh lẽo, hoang vắng và tàn tro. Cảnh đẹp thì lộng lẫy, sinh động, cổ sức sống, nay trở thành gò hoang tức là cùng với con người chôn sâu vào huyệt lộ – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Thế là cuộc sống đã đến hồi tàn tạ, thảm khốc, héo hon, trớ trêu và nghịch cảnh. Thế đấy, sự thay đổi vẫn diễn ra trong cuộc sống, cái gì rồi cũng lụi tàn cùng với bụi thời gian sắc úa màu phai Đọc di cảo của Tiểu Thanh, nhà thơ càng nhận ra cái quy luật biến thiên ấy của đời sống. Nhà thơ trước đó đã nhận ra cái quy luật phũ phàng ấy rồi, từ sự chiêm nghiệm của chính bản thân và đời mình, bởi vậy mà tác giả đã viết một cách đầy thương tâm:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Ba trăm năm sau, cùng với biết bao dâu bể, tất cả những gì gợi nhớ về con người ấy hầu như bị huỷ diệt tàn phá. Đến hôm nay con người tài sắc một thời ấy chỉ lại có một tập thơ nhỏ. Nguyễn Du chỉ còn được biết về nàng, được viếng hồn nàng, thổn thức tỏ lòng thương cảm vô bờ qua việc đọc tập thơ trước cửa sổ. Trong những câu thơ vào đề, Nguyễn Du đã tỏ rõ tấm lòng đồng cảm của minh về một đời người, về cả cuộc đời chung. Cho nên nói về Tiểu Thanh kí thật ra là Nguyễn Du nói về Tiểu Thanh, nói về con người chứ không phải nói về nghệ thuật, hai câu thực, nhà thơ tiếp tục suy tưởng, thổn thức về thân phận và tài hoa của nàng Tiểu Thanh:
Loading... Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Nói đến son phấn là nói đến nhan sắc nói văn chương là nói đến cái tài. Son phấn thì làm gì có thần nhưng Nguyễn Du đã tạo hồn, tạo thần cho nó để rồi cũng biết hận biết đau nỗi đau bị vùi dập. Nói son phấn có thần hẳn Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, bất tử của nhan sắc người đẹp. Phải, nhan sắc – cái đẹp chính là giá trị quý báu của cuộc sống, nó có sức sống bất tử vì thế mà ba trăm năm sau cho dù hoa uyển có tàn tạ, hồ Tây có hoang phế, núi Cô Sơn có trở thành gò đống xấu xí thì nhan sắc của Tiểu Thanh vẫn không bị lãng quên, ít nhất là nó gây niềm thương cảm ngậm ngùi trong lòng người. Chi phấn hữu thần riêng một ý thơ này đủ để khẳng định con người nhân đạo chủ nghĩa đáng quý trong tâm hồn, trái tim Nguyễn Du. Trong xã hội phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến, mấy ai dám nghĩ như vậy về chi phấn, về vẻ đẹp của người phụ nữ. Son phấn là sắc đẹp giai nhân. Còn văn chương là nói đến văn tài. Sắc tài là vậy nhưng làm sao tránh khỏi tài mệnh tương đối, tạo hoá trêu ngươi, thậm chí chính tài sắc lại là nguyên nhân của tai hoạ. Cho nên con người bị vùi dập, chà đạp một cách tàn nhẫn:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Văn chương là vật vô tri, làm gì có số mệnh, định mệnh. Ấy vậy mà đối với Nguyễn Du văn chương cũng có mệnh, cũng biết vương vấn, cũng biết luỵ trước nhưng nỗi oan khuất của kẻ tài hoa. Vợ cả đốt thơ Tiểu Thanh. Thế là văn chương cũng cùng với con người bị nguyền rủa, bị căm thù, bị tàn phá, tiêu huỷ. Vậy thì văn chương cũng hữu mệnh như con người – thật là một buổi chiều thu tê tái – buổi chiều của xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc phản ánh trong tâm hồn Nguyễn Du khi tất cả những cái gì đẹp đẽ cao khiết đều bị dập vùi. Hai câu thực đã khẳng định lòng cảm thương sâu sắc và nỗi oán hận, nỗi uất ức của ông đối với thời đại. Bản chất ấy là bản chất nghệ sĩ nhưng không phải là nghệ sĩ nào cũng có được. Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương không mệnh đốt còn vương – một ý nghĩ như thế thật là táo bạo, ngay cả đến thời đại chúng ta.
Hai câu luận tiếp tục khai triển niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với thân phận bé nhỏ của con người. Một câu hỏi khắc khoải, quan hoài vang lên đầy xót xa:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Vẫn là cái hờn, cái hận của Tiểu Thanh nhưng đã nằm trong cái hận của muôn đời, muôn người – một cái hận triền miên dài đến nghìn năm day dứt mãi khôn nguôi. Cái nỗi đau nhân tình thế thái, cái nỗi hận cổ kim từ xưa đến nay ấy thật khó mà hỏi trời. Trời thăm thẳm, trời cao xa quá, tận trên chín tầng mây làm sao hỏi được đây. Nhà thơ đã từ cái hận của muôn đời mà thấu hiểu cái hận của Tiểu Thanh, đã dồn cái hận cửa cổ kim vào cái hận của nàng bởi thế cái hận trở nên có sức mạnh, có sức lay động lòng người. Và không hỏi được, không lí giải được lại càng thêm hận khiến cái hận trở nên thấm thía. Với những thanh trắc (cổ, hận, sự,vấn), Nguyễn Du đã diễn tả một cách đầy bi phẫn nỗi đau của những con người tài hoa bạc mệnh. Tác giả đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cái đẹp, cái thiện, trước sự thắng thế của cái ác và do đó lời thơ đã tố cáo mạnh mẽ cải chế độ phong kiến hà khắc với những khuôn phép bất nhân (chữ dùng của Xuân Diệu) chà đạp con người, đặc biệt là con người tài sắc, yếu đuối. Phong vận kỳ oan ngã tự cư – cái án phong lưu khách tự mang. Cái án phong lưu là án gì? Phải chăng đó là cái án của con người tài sắc. Là con người tài sắc mà phải chịu cái án ấy – cái án bị đọa đầy, bị hắt hủi, bị hành hạ cho đến chết thì thật thương tâm. Khách ở đây là ai? Sao cái án ấy khách lại tự mang vào mình? Khách tự mang là do lòng cảm cựu ai xui thương mướn hay là do một nguyên do nào khác. Không, đó là cách tự vận vào mình một cách cáo cả đó là cái thông luỵ của bọn tài tử trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy. Nguyễn Du cũng là một trong những người cố tình hữu ái nhất phiến tài tình tiên cổ luỵ bởi đó tự coi mình là đồng hội đồng thuyền với kẻ mang nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Nhà thơ thông cảm với Tiểu Thanh, bênh vực Tiểu Thanh, uất ức mà khóc cho Tiểu Thanh.
Đau đớn trước nỗi oan lạ kì của Tiểu Thanh, xót xa trước sự quên lảng của người đời, Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh một người con gái hồng nhan đa truân của hơn ba trăm năm về trước và đặt câu hỏi lớn cho ba trăm năm sau:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khốc Tố Như chăng?)
Hai câu kết, Nguyễn Du chuyển mách cảm xúc khóc mình, ấy vậy mà không hề lạc điệu, rời rạc mà vẫn phù hợp, vẫn đảm bảo bài thơ là một chỉnh thể. Từ sự xót thương kiếp tài hoa mệnh bạc của Tiểu Thanh, từ tâm sự cùng hội cùng thuyền tự đặt mình vào nỗi oan khiên đó, tác giả liên hệ đến bản thân mình, nghĩ đến thân phận mình cũng giếng nàng cho nên nối người hoá ra nói mình, thương người hoá ra tự thương mình và băn khoăn không biết sau này ba trăm năm lẻ nữa có ai còn nhớ đến mình, khóc cho mình như khóc cho Tiểu Thanh không? Vì thế khóc cho người rồi khóc cho mình là phù hợp với mạch cảm xúc của Nguyễn Du. Ba trăm năm không hoàn toàn là một con số chuẩn xác.
Hai câu kết đã hé mở một thế giới riêng của một con người mà từ trước ta ít để ý: Đó là con người Tố Như với những băn khoăn, trăn trở, riêng tây. Nguyễn Du không hề nói đến Tố Như, bỗng nhiên nhân câu chuyện Tiểu Thanh, lại tự hỏi một câu vớ vẩn… Một tấm lòng vẫn dấu che, bỗng lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ta trông được cả một thế giới còn chưa nói. Dường như Nguyễn Du muốn đưa ra một lời dự cảm, một lời tiên tri: Hơn ba trăm năm sau chắc còn có người khóc mình cố nghĩa là phải khóc thương cho số phận chịu nhiều đau khổ, nhân loại vẫn còn những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đó là một nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lý sâu sắc về thuyết tài mệnh tương đồ. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình nữa. Con mắt trông thấy sáu cõi, hay tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du là như vậy đó.
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Ông có tình thương bao la với những kiếp người tài hoa, bạc mệnh dù là người Việt Nam hay Trung Quốc. Rồi ông lại tự vận vào mình cái án phong lưu để mà tự đau, tự thương cho mình bơ vơ, không tri âm, tri kỷ trước cõi đời. Trong văn chương thời trung đại, quan niệm vô ngã, phi ngã chi phối dễ gì có nhiều người biết thương mình, thương một cách cực độ như Nguyễn Du. Nguyễn Du luôn sống mãi trong lòng người với tinh thần nhân đạo cao cả, xứng đáng là nhà nhân đạo lớn.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư