Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

3 trả lời
Hỏi chi tiết
1.419
0
0
Bạch Tuyết
01/08/2017 01:26:38
Đề bài: Phân tích bài thơ Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài làm
1. Trong đoạn thơ trữ tình - chính luận này, Nguyễn Khoa Điềm trình bày những cảm xúc và suy tưởng về đất nước dưới dạng một lời trò chuyện tâm tình, mạch cảm hứng và liên tưởng có vẻ tự do, phóng túng như một thứ tuỳ bút thơ. Nhưng thực ra, vẫn có một hộ thống lập luận khá chặt chẽ, tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đây : trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ - hiện tại - tương lai) ; trong chiều rộng không gian - địa lí; trong bề dày của văn hoá - phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó, thống nhất. Nhưng ở bất cứ phương diên nào thì tư tưởng cốt lõi cũng là quan niệm "Đất Nước của Nhân dân". Tư tưởng này cũng chính là "hệ quy chiếu" mọi xúc cảm, suy tưởng và nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, đặc sắc. Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm sâu sắc thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca thời kì chống đế quốc Mĩ.

2. Đoạn trích Đất Nước không mở đầu một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước là những gì có thể bắt gập ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu của hà, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở. Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ đã không bắt đầu bằng việc đưa ra các sử liệu, mà bằng những gì rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống của nhân dân, được gợi ra từ những chất liệu của văn hoá dân gian, của ca dao, tục ngữ. Những câu thơ mở đầu gợi nhớ đến những truyền thuyết và truyện cổ tích vào loại xa xưa nhất của dân tộc (truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng), nén văn minh lúa nước đã hình thành từ thời Âu Lạc xa xưa và những tập tục lâu đời ("Tóc mẹ thì bới sau đầu"). Đó chính là sự cảm nhận về chiều sâu lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong đời sống hằng ngày của nhân dân.
Tiếp đó là cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó.
Chúng ta biết là ở nhiều ngôn ngữ, từ đất nước thường được cấu thành từ những từ gốc là nơi sinh; quê hương, quê cha. Ở đây, lối "chiết tự" này có thể gợi ra cho thấy một cách quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian "Thời gian đằng đẵng - Không gian mênh mông". Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ (con Rồng cháu Tiên), truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, đó là chiều dài lịch sử của đất nước, về không gian địa lí, đất nước là núi sông, rừng và bể "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc", "con cá ngư ông móng nước biển khơi". Đất nước còn là cái không gian sinh tồn gần gũi với cuộc sống của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn...
Và tựu trung, đất nước trường tồn là ở con người, truyển qua các thế hệ:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau.
Trên chiẻu rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được thể hiện tập trung trong các bình diện văn hoá - phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc, trong đời sống hằng ngày và trong những biến cố lịch sử, trong đời sống mỗi cá nhân và trong cuộc sống cả cộng đồng. Đây chính là cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp nhiểu chiều của nhà thơ về đất nước.
Mạch thơ dẫn đến những suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi con người với đất nước, đây là cái đích, đồng thời cũng là điểm hội tụ những cảm nhận về đất nước trong phần một của đoạn thơ:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm […]
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Lời nhắc nhủ thế hệ trẻ vể trách nhiệm với đất nước, không mang giọng "giáo huấn", mà như một lời tâm sự, tự nhủ chân thành từ đáy lòng mình.
3. Tư tưởng cơ bản trong phần 2 của đoạn trích Đất Nước là quan niệm "Đất Nước của Nhân dân". Thực ra, tư tưởng này đã thấm nhuần ở ngay phần đầu, nhưng được khơi sâu, phát triển thêm nhiều bình diện và làm nổi bật lên trong phần 2 của đoạn trích.
Trở lại với bình diện không gian - địa lí, nhà thơ góp một cách phát hiện mới và độc đáo về những thắng cảnh thiên nhiên của đất nước (đoạn từ "Những người vợ nhớ chồng" đến "Những cuộc đời đã hoá núi sông ta"). Những cảnh quan kì thú của non sông gấm vóc (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, Con Gà ở Vịnh Hạ Long, hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên, v.v) không chỉ là tặng vật của tạo hoá, thiên nhiên, mà đã gắn liền với cuộc sống con người ; nó chỉ trở thành thắng cảnh qua sự cảm nhận của tâm hồn dân tộc, nên đã gắn liền với lịch sử dân tộc. (Trong kho tàng văn học dân gian, có rất nhiều truyộn cổ tích và câu ca dao gắn liền với những thắng cảnh thiên nhiên). Nếu không có những người vợ mòn mỏi trông đợi chồng qua những cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không thể có sự tích vể những đá Vọng Phu ở nhiều nơi trên đất nước ta ; nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có cách cảm nhận độc đáo về vẻ hùng vĩ của vùng đồi núi Phong Châu ("Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"). Điều đặc sắc là ở đây, cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức vể Nhân dân, về những con người bình thường đã góp phần mình làm nên đất nước (người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo). Và cũng không chỉ ở những thắng cảnh mà ở khắp mọi nơi đểu có sự góp phần tạo dựng của những người dân bình thường:
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
Và tác giả dẫn tới một khái quát sâu sắc :
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà trước hết nhắc đến vô vàn những lớp người vô danh bình dị:
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Những con người vô danh và bình dị đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của dân tộc: từ hạt lúa, ngọn lứa đến tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cho đến cả tên làng,... Họ cũng là những người khi:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Mạch suy tưởng của tác giả dẫn đến tư tưởng trung tâm của đoạn thơ, cũng là hội tụ mọi xúc cảm của nhà thơ: "Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Và một cách tự nhiên, nhà thơ lại trở vẽ với cội nguổn phong phú, đẹp đẽ là văn hoá dân gian. Câu thơ với hai vế song song, đồng đẳng : "Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại", là một cách định nghĩa về đất nước, thật giản dị mà độc đáo. Bởi vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống tinh thần của nhân dân, hơn ở đâu hết, có thể tìm thấy ở văn hoá dân gian, mà tiêu biểu là ở trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích, thần thoại,... Tác giả chọn ba câu trong kho tàng phong phú của ca dao Việt Nam để nói về những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, tâm hồn dân tộc Việt Nam : thật say đắm thiết tha trong tình yêu "Yêu em từ thuở trong nôi" ; quý trọng tình nghĩa "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội" ; nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy - Đi trả thù mà không sợ dài lâu". Còn vẻ đẹp thơ mộng của núi sông đất nước thì như được kết đọng trong những câu dân ca, nhất là dân ca trên sông nước, hay cũng có thể nói chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta đã hoà nhập, soi bóng cùng vẻ dẹp của núi sông rất nên thơ:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyên vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" thực ra đã hình thành từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài của dận tộc ta. Nhưng chỉ đến thời kì hiện đại, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ, tư tưởng ấy mới được nhận thức sâu sắc hơn do quan niêm duy vật về lịch sử, do vai trò to lớn, những hi sinh và đóng góp vô tận của nhân dân trong hai cuộc chiến tranh lâu dài và cực kì ác liệt. Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong thời kì chống đế quốc Mỹ bởi mang tính dân chủ sâu sắc, đã được sáng tạo dưới ánh sáng của tư tưởng nhân dân và cảm hứng về đất nước.
Cũng trong chiều hướng tư tưởng chung của thời đại mình, các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước đã có những phát hiên làm sâu sắc thêm tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân", thông qua sự trải nghiệm của chính mình, cùng chia sẻ những gian lao, hi sinh của nhân dân, và được sự chở che, đùm bọc của nhân dân. Các bài thơ của Nguyễn Duy (Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm), của Phạm Tiến Duật (Lửa đèn), những trường ca của Thanh Thảo (Những người đi tới biển), Hữu Thỉnh (Đường tới thành phố),... đều tập trung thể hiện hình ảnh nhân dân.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ vể đất nước của thơ ca chống Mĩ cứu nước, làm sâu sắc thêm tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" của thời đại ấy.
Đất Nước là đoạn thơ trữ tình - chính luận, cũng như toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng. Đoạn thơ kết hợp được cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy có lúc còn dàn trải, trùng lặp, thiếu cô đọng hoặc chính luận có khi còn lấn át cảm xúc, nhưng những nét đặc sắc thành công của đoạn thơ này là rất rõ, không chỉ ở nội dung tư tưởng mà còn cả ở những sáng tạo trong nghệ thuật thơ, trong việc sử dụng thi liệu, sáng tạo hình ảnh. Tác giả đã sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hoá dân gian - từ ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, truyện cổ tích đến phong tục và sinh hoạt hằng ngày. Điều đó tạo cho đoạn trích Đất Nước một không gian nghệ thuật riêng, mở ra một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc, gần gũi mà mĩ lộ, bay bổng của văn hoá dân gian, kết tinh tâm hồn, trí tuệ nhân dân. Việc vận dụng văn hoá dân gian ở đây không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, mà là sự thấm sâu quan niệm "Đất Nước của Nhân dân" vào trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Tôi yêu Việt Nam
05/08/2017 17:53:56
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu song gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đât nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhje, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xưa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ :ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc. Là những con người đó làm nên đất nước…
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam.
Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kẻo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sang
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phương hoàng”, “núi bà đen, bà điểm”, “lạc long quân âu cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.
Đất nước còn biểu tượng cho long thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Lại them một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.
Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn còn sống mãi trong long người đọc.
1
0
Phạm Văn Phú
06/08/2017 19:24:31
Đất nước là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi một con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài thơ “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi (…) Đất Nước có từ ngày đó”.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca “Mặt đường khát vọng” được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu, cổ tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà “mẹ thường hay kể”:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian “đằng đẵng”, trên không gian địa lí “mênh mông”, qua sự tích “Trăm trứng” và giỗ Tổ Hương Vương. Nhà thơ bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn năm trở về cội nguồn Đất Nước:
”Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng (…) Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Tục “bới tóc xăm mình” của người Lạc Việt, câu ca dao “gừng cay muối mặn” nói về đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội nguồn “Đất Nước có từ ngày đó”.
Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:
”Đất là nơi ”con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi ”con cá Ngư Ông móng nước biển khơi”.
Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, “trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu nước là nghĩa vụ thiêng liêng:
”Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa than cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp, “lối sống” của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
99 con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc Ông Trang… đều do Nhân Dân ta “góp cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ.
“Bốn nghìn lớp người” đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước: “Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con - Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Nhân Dân là người sản xuất “giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng tạo ra ngôn ngữ “truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:
”Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương “Đất Nước” chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Bình giảng đoạn thơ.
Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:
”Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có từ ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước.
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:
”Khi ta lớn lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ”ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.
Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ khẳng định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục “búi tóc” của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: “Tay bưng chén muối đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ”, trong tình thương của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng: “Cái cột, cái kèo thành tên”. Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức “một nắng hai sương”, thì ngôn từ “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước “ngày xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh hùng “biết trồng tre mà đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca dao “gừng cay muối mặn”, qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có “gừng cay muối mặn”, cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng - phân - hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư