Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích - Bình luận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

2 trả lời
Hỏi chi tiết
966
0
0
CenaZero♡
01/08/2017 01:33:39
Đề bài: Phân tích - Bình luận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích truyện Kiều của Nguyễn Du.
Bài làm
Trích đoạn chia làm ba phần rõ rệt, nhất quán trong phong cách ngôn từ, và thi pháp tả tình, tả cảnh. Cho nên nếu cho rằng chỉ ở phần thứ ba, nghệ thuật biểu hiện mới là tả tình qua tả cảnh thì tuy có đúng nhưng không đủ, nhất là không thấy dược tính nhất quán của Nguyễn Du. Để đảm bảo tính ổn định khách quan này, nên chăng cần một cách đặt tên :
- Nỗi buồn hiện tại ;
- Lòng thương nhớ người thân ;
- Tương lai vô vọng và vô định của kiếp người ?
Cả ba phần tuy có hướng đến những khía cạnh khác nhau, song đều quy tụ vào "cái tôi" chù thể : nàng Kiều. "Cái tôi" ở đây là "cái tôi" tâm trạng.

Trước hết, ở sáu câu thơ đầu của bài thơ, tâm trạng của Kiều là một nỗi niềm khắc khoải triền miên trong nỗi buồn vô hạn. Nhưng buồn như thế nào, nếu phải cụ thể hơn, thì có đến hai quan điểm. Cách nhìn nhận thứ nhất cho rằng cả sáu câu đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn với những căn cứ ngôn từ có trong văn bản, chẳng hạn như: "khoá xuân" thực chất là bị giam lỏng, nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông hoang vắng (mênh mang trời nước, dãy núi mờ xa, cồn cát bụi mù, không một bóng người), Kiều sống trong một thời gian tuần hoàn khép kín (mây sớm đèn khuya, V.V.). Cách hiểu ấy rõ ràng là có cơ sở nhưng dường như đã bỏ quen (hay là bỏ qua ?) hai câu thơ vô cùng quan trọng là :
Bẽ bànq mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh, như chia tấm lòng.
Ở câu lục, ý kiến nhận xét trên không đả động gì đến hai chữ "bẽ bàng" còn ở câu bát hoàn toàn không được nhắc tới. Bởi vậy chúng tôi cho rằng, nên hiểu đoạn thơ theo cách thứ hai. Cách hiểu này lấy hai câu dẫn làm căn cứ mới có khả năng phát hiện được tâm trạng đích thực của nhân vật nàng Kiều. Trong cách hiểu này, ta phải tách đối câu sáu :
Bẽ bàng / mây sớm đèn khuya
Đây là một câu thơ hai đối tượng: "bẽ bàng" thuộc về Thuý Kiều còn "mây sớm đèn khuya" thuộc về thiên nhiên. Soi vào thiên nhiên, Kiều nhận ra một thứ chân dung biến dạng của bản thân mình. Thiên nhiên ấy là gì, "mây sớm" thì tinh khôi, trong sạch, "đèn khuya", phải chăng chính là lương tâm ? Sự trong sạch "mây sớm" gợi cái tương phản nhớp nhơ, còn "đèn khuya" gợi sự giày vò của chính con người đau khổ ấy. Cái nhìn phản cảm này không phải bây giờ mới có. Ngay lần gặp Mã Giám Sinh, tên lừa đảo buôn người, Thuý Kiều dã vô cùng ngượng ngập :
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Bởi đây là hai thế giới khác hẳn nhau, hai hạng người khác nhau mà Kiều phải nhắm mắt đưa chân làm con mồi cho chúng. Nhưng lần này thì khác. Cái xấu không còn ở đối phương, nó đã thuộc về chính mình, một con người đã có một thời không phải thế, một thời phong nhuỵ màn che, trướng rủ. Bởi thế mới dẫn đến "bẽ bàng". "Bẽ bàng" là sự tủi, thẹn cho chính người đang có nó. Bởi nó đang hiện diện nơi nàng nên mới có sự phân đôi : một tấm lòng chia làm hai nửa : nửa tình, nửa cảnh. Tình và cảnh ở trong văn chương trung đại dường như đồng hành, một tiếng hát bè đôi theo nguyên tắc "Người buồn cảnh có vui dâu bao giờ". Nhưng ở đây một nghịch lí xuất hiện phá vỡ nguyên tắc chủ quan hoá khách quan. Sự vò xé trong tâm trạng bởi không đồng hoá được giữa khách thể và chủ thể này dã làm giàu thêm yếu tố hiện thực ở trong thơ. Cảnh rất đẹp, rất trong, đầy ắp tiềm năng cho thi hứng, nhưng đối diện với nó, một hồn thơ không the cất bút làm thơ như những lần trước đó và sau này. Tâm hồn ấy bị trọng thương. Con chim nhìn bầu trời thèm khát không còn đủ sức bay lên. Nó đã bị mũi tên nhằm trúng đích.
Từ đó ta mới thấy bốn cầu mở đầu là một bức hoạ. Bức tranh trời như dệt gấm thcu hoa, ẩn hiện với "Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung". Ở câu thơ này còn có cái bất ngờ của cảm giác lạ. Khoảng xa, độ gần về vật lí, do nhận biết bằng tâm lí mà chúng dổi chỏ cho nhau. Trăng vốn xa bỗng chốc nên gần (tấm trăng gần) và ngược lại cái xa lại thuộc về núi.
Câu thơ mờ tó "Sen vàng lãng đãng như gần như xa". Hai cảm giác thực và mộng đan gài vào nhau như hiện ra từ một giấc chiêm bao. Có người hiểu câu thơ đó tiếp nối với hai câu sau tạo thành một sự bủa vây, tạo nên sự rợn ngợp trong tâm trạng của người nhìn cảnh là chưa đúng. Bởi nếu thế thì ở đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích có đến hai lớp bao vây : một của Tú Bà (khoá xuân), một là của thiên nhiên vô tội (?). Mà làm sao có thể hiểu hai câu thơ rất đẹp rất tho là sự bủa vây :
Bốn bê bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
"Xa trông" là trông thêm một tầm của mắt, rộng hơn, thoáng đãng hơn, thấy những dặm đường, cồn cát. Chúng chỉ là những chi tiết đời thường rất dễ bị lãng quên, nhưng cát ớ đó là "cát vàng" bụi đường quẩn lên là "bụi hồng", bụi đỏ, thì đâu còn cái vô giá trị, cái tẻ nhạt ? Nó đã nên thơ. Đúng ra là cuộc sống bình thường có chất thơ riêng của nó, khi con người không bị áp bức, không rơi vào cảnh ngộ đường cùng (mà Kiểu lúc này đây đang trải nghiệm). Bởi thế cái dẹp thuộc về "nửa cảnh", còn đối lập với cái dẹp thuộc phía "nửa tình". Câu thơ và cả đoạn thơ (sáu câu) mới bề bộn ngổn ngang, giằng xé. Chỉ có điều bể bộn mà vẫn như không. Cái "động" ở đáy sâu chứ không phải nổi trên bề mặt nước tĩnh tại, yên bình. Những cặp câu thơ lục bát rất nhịp nhàng đăng đối vừa diễn tả cái lặng lẽ bên ngoài, vừa rất nên thơ. Phép đối trong câu, hoặc trong một vế câu rất dụng công của tác giả đã nâng tầm cái thực lên thành cái đẹp mà không đẽo gọt, cầu kì, rất dung dị, tự nhiên.
Với phần hai của đoạn trích gồm tám câu tiếp theo diễn tả lòng thương nhớ người thân của Thuý Kiểu, đặc sắc nghệ thuật ở đây là ngồn ngữ nội tâm độc thoại. Tất cả là nội tâm, là độc thoại. Vấn đề là cách độc thoại khác nhau chứ không hẳn là phần có, phần không một cách rõ ràng tách bạch. Vậy nên chăng định hướng cho phần này chỉ đi vào nỗi nhớ người thân. Cái khó ở đây chưa phải là cái khó của việc khai thác hình tượng, ngôn ngữ mà là ở ý thơ và giọng điệu. Về ý thơ có hai câu chưa rõ nói về ai :
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
"Tấm son", theo cách hiểu thứ nhất thuộc về Thuý Kiều. Có thể đó là tấm lòng nhớ thưong Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc cũng có thể là tấm lòng trong trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố biết bao giờ gột rửa. Chúng tôi xin đề xuất một cách hiểu thứ hai : "tấm son" ấy thuộc vé Kim Trọng với ba lí do.
- Xét về hình tượng thơ, phần này nói về Kim Trọng, lòng thương nhớ Kim Trọng của nàng Kiều. Vậy nó phải nhất quán, chứ không phải hai câu trước nói về Kim Trọng rồi hai câu sau nói đến Thuý Kiều. Chỉ có nền tảng cảm xúc nhớ thương là của nàng Kiều, để từ đó mà chỉ một nhân vật Kim Trọng hiện lên duy nhất. Nếu so sánh phần nói về cha mẹ (bốn câu tiếp theo) ta thấy mạch thơ, hình tượng thơ vẫn là như thế. Nếu cho rằng "tấm son" là của Thuý Kiều thì hai câu thơ đó sẽ rơi vào tình trạng non tay, lạc phong cách, và điều này không thể chấp nhận được ở Nguyễn Du.
- "Tấm son" có liên quan đến khái niệm chân trời góc bể ("Bên trời góc bể bo vơ"). Ai trong số hai người đang lạc loài nơi ấy ? Là Thuý Kiều thì điều này ai cũng hiểu. Nhưng sao không thể hiểu người ấy là Kim Trọng, bởi vì yêu nhau mà phải xa nhau thì người nọ cũng xem người kia là góc bể, chân mây nghĩa là một độ xa mà người ta không đo được (về tâm lí chứ không phải về địa lí). Vì trên đời này, ai có thể đến nơi tận cùng vô định bằng nỗi nhớ thương ?
- Điều đáng kể hơn cả, "tấm son" là lòng chung thuỷ sắt son, trong tình yêu, nó dành cả cho hai người, về phía Thuý Kiều, nó còn đâu nguyên vẹn nữa nếu hiểu theo cách thông thường (khác với sau này khi Kim - Kiều gặp lại "Như nàng lấy hiếu làm trinh"). Một con người tự trọng như Kiều làm sao còn nhận mình là kẻ vẫn giữ được "tấm son" trong cảnh ngộ buộc phải làm vợ kẻ khác ? Và ngược lại, về phía chàng Kim, Kiều biết chàng vẫn chung tình dù đang ở góc bể chân mây. Ân hận của nàng Kiều là mình không còn xứng đáng với chàng. Vậy chỉ còn một cách làm sao cho "tấm son" ấy ở chàng Kim phai nhạt di, đừng đinh ninh chờ đợi và Kiều lại thêm một lần mang tội. Hiểu như thế câu thơ không những nhất quán, liền mạch mà còn giàu ý nghĩa biết bao.
Bốn câu thơ nói về cha mẹ không có gì đặc biệt với cách nói ước lệ, sách vở rất quen thuộc về đạo hiếu thời xưa. Có chăng theo cách nói của người khác như thế, nhưng tâm trạng thổn thức là của riêng nàng, nó mới xót xa, thấm thía đến rưng rưng. Thành công của Nguyễn Du là làm mới lại một cái gì tưởng như đã cũ.
Tám câu thơ cuối là những cảm nhận phù du vể tương lai vô vọng và vô định, vô nghĩa của kiếp người. Điều này không phải ngẫu nhiên.Vì bản thân đang là con mồi cho tạo hoá vùi dập. Vì lòng thương (với Kim Trọng và cha mẹ) của nàng bất lực. Cuộc đời đó đối với nàng còn có nghĩa gì đâu. Cảnh ở đây hoàn toàn khác so với cảnh đầu, không phải mây sớm trăng khuya, núi đồi, gò đống mà là cảnh biển, một mặt biển mênh mông đúng vào lúc chiều buông "mặt trời gác núi". Còn cái khác thứ hai là ở trạng thái xúc cảm. Có đến bốn cụm từ "buồn trông" đặt ở đầu câu mở ra bốn cặp câu lục bát như mở ra một nỗi buồn chất chứa tầng tầng lớp lớp lâu nay nén chặt trong lòng. Đây là lúc nàng được giãi bày với trời, với biển. Vậy tâm trạng ấy là tâm trạng gì? Tâm trạng ấy bây giờ đồng hành cùng cảnh vật, với ngọn nước, cánh buồm, bông hoa, ngọn cỏ, v.v. Ngọn nước là "ngọn nước mới sa" nó đục chứ không trong ("Đục như tiếng suối mới sa nửa vời"), cánh buồm như một ảo ảnh gợi sự chia li, bông hoa trôi dạt, ngọn cỏ rầu rầu không còn sức sống tựa như ngọn cỏ trên mộ Đạm Tiên.
Những cảnh ấy gõ cửa và tâm hồn Kiều mở ra, đồng điệu. Để từ đó có sự hoà thanh, hoà âm về nổi bất hạnh của con người. Những câu thơ này không chi có cảnh, có tình, nó còn mang một hàm ý triết học trong sự giải đáp cho kiếp người, ở nơi "trăm nãm trong cõi”.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nga
08/04/2021 21:27:18
+4đ tặng

Đề tài về người phụ nữ luôn là nỗi trăn trở của các nhà thơ lớn. Không chỉ khắc họa những nét đẹp trong tâm hồn, tính cách mà các nhà thơ còn cảm nhận rõ được nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Và Nguyễn Du đã rất thành công khi chọn người phụ nữ làm đề tài trong tác phẩm của mình với kiệt tác dựa theo cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm ở Trung Quốc đó là Truyện Kiều.

 

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được trích trong tác phẩm đó là một đoạn trích hay và giàu cảm xúc. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình nhà thơ đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bị giam cầm, nỗi nhớ Kim Trọng, nhớ gia đình và đặc biệt là tâm trạng của Kiều trước cảnh vật ở lầu Ngưng Bích.

 

Mở ra trước mắt người đọc là thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

 

Câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” lầu Ngưng Bích cao, đẹp, cái tên nghe cũng thật hay: Ngưng Bích. Nhưng chính nơi đây lại là nơi “khóa xuân” tức là khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều nàng chẳng khác nào bị giam lỏng. Đứng trên lầu cao hướng tầm mắt ra xa nàng nhìn thấy:

 

“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”

 

Nhìn ra xa là những phía dãy núi chạy dài ngước mắt lên trông thấy tấm trăng rất gần. Trông ra xung quanh là bốn bề bát ngát rộng lớn có những cồn cát cứ nối tiếp nhau chạy dài. Gió thổi, cuốn lên bụi hồng. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà thơ cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích hiện lên thật đẹp, sống động nó có thể là thực hay mang tính ước lệ. Cảnh được nhìn từ xa đến gần, từ cao xuống thấp nhưng lại hoang vắng rợn ngợp không một tiếng người, không có cả một tiếng chim hót. Cảnh thiên nhiên tác động đến tâm trạng của con người:

 

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

 

Từ “bẽ bàng” nói đến tâm trạng xấu hổ, tủi thẹn của nàng Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Trong hoàn cảnh cô đơn nàng Kiều chỉ có thể bầu bạn với mây buổi sớm, đèn buổi khuya nhưng hai người bạn ấy nàng chỉ có thể ngắm mà không thể tâm sự, giãi bày khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn. Thành ngữ, cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ “mây sớm đèn khuya” chỉ về vòng tuần hoàn của thời gian.

 

Dường như thời gian và không gian đều đang giam hãm Thúy Kiều nàng không thể nào thoát ra được. “Nửa tình” là nói đến tình cảnh của Kiều bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích xa gia đình, chia tay với mối tình đầu. Còn “nửa cảnh” là nói đến cảnh thiên nhiên trong tâm trạng buồn, đau khổ nàng muốn tìm đến thiên nhiên để giãi bày nhưng nó lại hoang vắng, xa vời. Nửa tình nửa cảnh như hòa vào là một làm cho trái tim nàng đau đớn như bị chia cắt. Bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích Kiều cảm thấy cô đơn, nhớ người mình đã từng thề non, hẹn biển:

 

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trong mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

 

Nỗi nhớ Kim Trọng nàng nhớ những đêm ngồi dưới ánh trăng cùng nhau thề nguyện sẽ bên nhau trọn đời. Nàng tưởng ở quê nhà Kim Trọng vẫn mong ngóng mình trở về. Các động từ - vị ngữ: "tưởng", "trông", "chờ", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình.

 

Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ! Nàng cảm thấy hổ thẹn với Kim Trọng vì không giữ trọn lời thề năm xưa mà giờ đây không thể nào quay lại được nữa. Nhớ Kim Trọng rồi nàng lại nhớ về gia đình:

 

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

 

Nhớ cha mẹ lại bắt đầu bằng chữ “xót” nàng xót xa khi tưởng tượng ra cảnh cha mẹ mình mỗi sớm mỗi chiều người mẹ đứng tựa cửa trông chờ con về nhưng đó là sự chờ đợi trong vô vọng. Trong lòng nàng tự hỏi “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ chỉ hành động của người con mùa hè nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ, mùa đông trời lạnh thì ủ ấm chỗ cha mẹ nằm và giờ đây ai có thể làm việc đó thay nàng.

 

Cứ nghĩ đến điều đó mà lòng nàng cảm thấy buồn, lo lắng. Viết về nỗi nhớ cha mẹ của người con xa quê nhà thơ đã đưa vào những điển tích “Sân Lai, gốc tử” nói về việc làm của người con hiếu thảo không những phụ dưỡng sớm hôm mà còn nhảy múa cho cha mẹ vui.

 

Còn với nàng Kiều đang bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ trên đất khách quê người giờ đây không phụ dưỡng được cha mẹ sớm hôm thời gian cứ trôi kể cả “gốc tử đã vừa người ôm” nàng không thể làm tròn bổn phận của người con. Nghĩ đến điều này mà nàng cảm thấy xót xa ân hận nhưng với nàng Kiều ta thấy nàng đã làm tròn bổn phận khi bán mình cứu cha. Nỗi nhớ người thân rồi cũng qua đi để rồi nàng lại trở về thực tại:

 

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”

 

Trong tâm trạng buồn hướng tầm mắt về nơi cửa bể là không gian rộng lớn chỉ có trời với biển. Không gian ấy lại đặt vào thời điểm chiều hôm gợi lên trong lòng nàng nỗi nhớ quê hương nhớ về người thân yêu. Trên mặt biển rộng lớn nàng còn nhìn thấy con thuyền và cánh buồm thấp thoáng ở phía xa.

 

Câu hỏi tu từ “thuyền ai” như rơi vào khoảng không trống vắng không lời đáp lại bởi con thuyền kia cứ đi xa nàng khuất hẳn về phía chân trời xa. Nhìn con thuyền nàng liên tưởng đến thân phận mình lênh đênh trôi dạt trên đất khách quê người. Nghĩ đến mà lòng nàng lại thấy đau đớn. Đôi mắt của nàng lại hướng tới cảnh ngọn nước mới xa:

 

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu.”

 

Trước mắt nàng dòng nước chảy vừa mạnh vừa siết cuốn theo những cánh hoa nhỏ bé mỏng manh lúc nổi lúc chìm. Câu hỏi tu từ “hoa trôi man mác biết là về đâu” nàng hỏi hoa kia hay hỏi chính lòng mình. Nhìn cánh hoa mà nàng nghĩ đến số phận mình cũng bị dòng đời xô đẩy không biết đâu là bến bờ. Nghĩ đến mà lòng nàng lại thấy xót xa. Thay hình ảnh ngọn nước mới sa là hình ảnh nội cỏ:

 

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

 

Cảnh nội cỏ rầu rầu, từ láy “rầu rầu” gợi về sắc cỏ héo úa, rầu rĩ như bị bàn chân ai dẫm đạp. Nhìn nội cỏ ấy mà Kiều lại liên tưởng đến thân phận mình bị người đời chà đạp rồi cũng héo úa như nội cỏ mà thôi. Nghĩ đến điều đó thôi mà lòng nàng cảm thấy đau đớn. Trong tâm trạng ấy mà nàng lại nhìn thấy một màu xanh trải dài từ mặt đất tới chân trời. Từ láy "xanh xanh” gợi một màu xanh đơn điệu và tẻ nhạt khiến cho lòng nàng đã buồn lại càng buồn thêm.

 

Cảnh cuối cùng xuất hiện trước mắt nàng Kiều vẫn là không gian nơi của bể mênh mông rộng lớn. Ở đó có gió cuốn mặt duềnh tạo nên những con sóng lớn xô đập vào bờ đã phát ra những âm thanh ầm ầm. Từ láy “ầm ầm” gợi tả âm thanh nghe thật dữ dội.

 

Sóng biển kia không chỉ va đập ầm ầm mà còn là tiếng kêu như gào thét nghe thật ghê rợn. Cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ “sóng kêu” sóng biển kia hay sóng gió cuộc đời những tai ương tai họa đang đùa giỡn nhấn chìm cuộc đời con người lúc nào không hay. Nghĩ đến điều đó mà lòng nàng cảm thấy lo sợ hãi hùng.

 

Điệp ngữ “buồn trông” lặp đi lặp lại như một điệp khúc trầm buồn đứng ở đầu bốn cảnh. Cách sử dụng từ láy kết hợp với câu hỏi tu từ mỗi cảnh thiên nhiên lại diễn tả tâm trạng khác nhau của Thúy Kiều từ nỗi buồn nhớ đến đau đớn xót xa lo sợ hãi hùng. Tất cả được diễn tả tinh tế qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình. Có thể nói rằng tám câu thơ cuối là một bước tranh tâm trạng và ngoại cảnh mà gửi gắm trong đó là sự đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du dành cho Thúy Kiều người con gái mà ông hằng mến mộ, yêu quý.

 

Đoạn trích đã cho ta thấy được nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ họ đã phải trải qua rất nhiều đớn đau. Hãy trân trọng người phụ nữ bởi họ có quyền được yêu thương.
 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư