Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai trong đoạn trích Làng

4 trả lời
Hỏi chi tiết
5.179
3
3
Ngọc Trâm
19/05/2018 22:09:25
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo trước cách mạng tháng 8/1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng”được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Hai, nhân vật chính của truyện rất yêu mến và gắn bó với làng quê của mình. Đặc điểm trên đã thể hiện rõ qua các trạng thái tình cảm khác nhau của ông với làng.
Ông Hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ Dầu của mình bằng một tình yêu đặc biệt. Đấy là nơi tổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn rau cắt rốn của ông. Do vậy, ông yêu làng này bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc và bền vững như tình yêu của một nông dân gắn bó với quê hương, nói cụ thể hơn là gắn bó với cảnh vật và con người của mảnh đất quê hương ấy. Bởi thế, mỗi lần nói đến làng chợ Dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, náo nức lạ thường. “Hai con mắt sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động”... Ông yêu tất cả những cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự hào: ”Nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh”, đường trong làng ”toàn lát đá xanh, trời mưa đi, bùn không dính đến gót chân”“phơi thóc rơm thì tốt thượng hạng”. Đôi khi ông cường điệu, ông tự hào mãnh liệt đến cả cái sinh phần của cụ Thượng “vườn hoa cây cảnh nom như động ấy”.

Mãi đến sau cách mạng thánh Tám, ông mới nhận ra chính cái dinh cơ của quan Tổng đốc ấy đã đem lại bao nỗi khổ ải cho dân làng. Có người bệnh, có người chết, bao nhiêu người làm việc không công. Riêng phần ông đã bị một đống gạch đổ vào bại một bên hông. Cả cái chân ông sau này khập khiểng, đi đứng không ngay ngắn được cũng là do cái lăng tai ác ấy. Dưới mắt ông, cái gì của làng chợ Dầu cũng lớn, cũng đẹp hơn hẳn những thứ của thiên hạ. Từ cái phòng thông tin triển lãm “sáng sủa và rộng rãi nhất vùng”, đến cái chòi phát thanh trong làng, cả đến cây lúa ngoài đồng... Cái gì của làng cũng làm ông say mê, hãnh diện, tự hào.
Lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, lòng yêu mến làng quê của ông Hai đã có những chuyển biến rõ rệt. Nếu trước kia, ông hãnh diện vì làng chợ Dầu giàu có, tươi đẹp, cái sinh phần của cụ Thượng tốt tươi, mới lạ, thì sau cách mạng tháng Tám, nhờ giác ngộ chính trị, ông lại tự hào về không khí cách mạng sôi nổi ở làng ông. Từ những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những giao thông hào chiến đấu, ông đã bộc lộ niềm sung sướng của mình truớc những sự thay đổi đó. Sự xuất hiện của những phòng thông tin, chòi phát thanh, đúng là cuộc đời, số phận ông thực sự gắn liền với những thăng trầm của làng Dầu yêu dấu của ông.Đối với ông Hai khi ấy, tình yêu làng mạc và tình yêu đất nước đã chan hoà làm một trong tình cảm và nhận thức của ông.
Những ngày đầu kháng chiến, ông luôn luôn tự hào về việc làng Dầu của mình đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ngay bản thân ông cũng đã nhiệt tình cùng với mọi người đi đào đường, đắp ụ để cản giặc và ông tha thiết muốn ở lại làng để trực tiếp chiến đấu. Nhưng sau đó ông Hai phải theo vợ con tản cư đến một làng khác. Nỗi nhớ làng không nguôi, ở nơi tản cư, ông đã tin tức về kháng chiến. Không đọc được báo, ông đã tìm hỏi tin cho bằng được. Trước tin một em bé ở ban tuyên truyền xung phong dũng cảm cắm cờ lên Tháp Rùa; một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, ông Hai cứ tấm tắc khen: “Khiếp thật! Tinh là những người giỏi cả”. Ngoài việc khâm phục những người anh hùng trong kháng chiến, ông Hai còn hả hê trước thất bại của địch: Chỗ này giết được tên Pháp với hai tên việt gian, chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp “ruột gan của lão cứ múa cả lên, vui quá”.
Nhưng không có gì đâu đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, “cổ ông Hai cứ nghẹn lại, da mặt tê rân rân”. “Ông lặng đi tưởng như không bao giờ thở được”. Niềm tự hào bao lâu bỗng chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, “ông nằm vật ra giường”, nước mắt ông cứ tràn ra. Khi nhìn đàn con, chưa bao giờ ông đau đớn đến thế, nghĩ rằng: “Chúng nó là trẻ con làng việt gian đấy ư?”
Ông Hai căm ghét bọn phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông Hai bế tắc nhưng nhất định không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông.
Từ đau đớn nhục nhã như thế, ông Hai lại biết bao vui sướng khi nhận được tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt. Nghĩa là làng Dầu của ông không hề theo giặc. “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn rồi”. Ông Hai cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy cho mọi người. “Vui mừng vì nhà mình bị đốt!” một niềm vui thể hiện một cách đau xót và đầy xúc động thể hiện tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Nỗi vui mừng của ông Hai ở đây thật vô bờ bến. Ông hào phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức.
Từ một người yêu mến đắm say làng mạc của mình, ông Hai đã gắn tình yêu ấy với tình yêu đất nước, chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ.
Thật đúng như nhà văn I-li-a  Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây (1946-1954). Nhà văn Kim Lân đã có những thành công trong việc xây dựng hình tượng người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm chân thực và thăm đượm tình yêu quê hương, đất nước.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
5
1
Nguyễn Tấn Hiếu
20/05/2018 07:10:53

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã xây dựng thành công hình ảnh những con người Việt Nam kiên cường, bất khuất với một tinh yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng. Bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương đế góp phần vào thắng lơi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc. Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật ông Hai - một người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ.

Phải đi tản cư do làng bị địch chiếm đóng nhưng ông lại không lúc nào nguôi nỗi nhớ về làng mìríh. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bỏ sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên. Tình yêu ấy được Kim Lân cảm nhận một cách sâu sắc và thể hiện hết sức giản dị. chân thành.

Những ai đã đọc Làng đều cảm nhận được ở ông Hai tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê hương. Đối với người nông dân chất phác ấy, tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Cũng như bao người dân lao động khác, cả một đời ông Hai gắn bó với mảnh đất quê nghèo mà nặng sâu ân tình. Cái làng Chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những .nét quen thuộc vừa có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, thậm chí yêu cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Dầu của ông có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hat thóc đất... Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đả làm nên bề dày lịch sử của làng ông.

Nhưng tình yêu làng của người nông dân ấy không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự biến chuyển của thời đại. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tưởng mới chiếu rọi tâm hồn ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia đều đáng căm thù; niềm tin về làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quán sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vào gậy tham gia; những hố, những ụ, những hào ,chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt cho đến điều lớn lao, đều trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Qua những lời khoe của ông Hai, ta có cảm tưởng như cảnh vật, làng xóm đã hằn in trong ông chiếm trọn con tim, khối óc người nông dân ấy.

Yêu làng, ông Hai có nhu cầu thể hiện, thổ lộ tình yêu ấy với tất cả mọi người. Đi đến đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Ông say sưa kể về làng của mình mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Mỗi khi bắt đầu nói về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mắt biến chuyển”. Chỉ một chi tiết ấy thôi, Kim Lân đã khắc họa thành công tình cảm thiêng liêng của ông Hai dành cho mảnh đất quê mình. Tình yêu ấy luôn ấm nóng trong trái tim ông và càng trở nên mạnh mẽ hơn khi ông phải xa làng. Trong những ngày xa quê, sống nơi sơ tán xa lạ. chính tình yêu làng đã trở thành sức mạnh trong ông. Những khi mệt nhọc, chỉ cần nghĩ về làng, kể chuyện làng là ông quên hết tất cả.

Nếu như cuộc sống cứ diễn ra yên bình như thế thì tình yêu làng của ông Hai mới chỉ là “tâm lí làng xã” của những người dân quê Việt Nam - những con người cả đời gắn bó với luỹ tre, cây đa, bến nước, sân đình; yêu nơi “chôn rau cắt rốn” bằng một tình yêu bản năng, máu thịt. Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây. Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. ở người nông dân ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước: Ta bắt gặp ở đây chân lí về cội nguồn của lòng yêu nước theo quan điểm của nhà văn Liên Xô (cũ) I. Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất.. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”'.

Nghe tin làng theo giặc, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân.., ông lão lảng đi, tưởng như không thể thở được”. Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau, ông tự giày vò, ông hoài nghi rồi lại tự nhủ mình phải tin vì mọi chuyện đã hết sức rõ ràng. Cuốì cùng, ông cay đắng rít lên: “Chúng bay ăn miệng cơm hay ăn miệng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này...”. Tiếng rít ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Trong ông đang có cuộc giằng co dữ dội: Ông yêu làng, làng ông đáng tự hào là thế, mà giờ lại theo Tây. Tình cảm của ông phải thế nào đây? Nhưng sự giằng co- ấy nhanh chóng đi đến kết luận: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì ta phải thù”. Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thế yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết... tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai.

Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc họa rõ nét hơn bức chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ông thấy tủi hổ vì niềm tự hào bấy lâu nay của ông giờ thành ra như thế. Ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi”, ông thương lũ con ông vì chúng có một quê hương đáng xấu hổ: “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”. Suốt những ngày đó, ông không dám đi đâu, chỉ “nằm rũ ở trên giường, không nói gì”, “quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội mà nghe ngóng”, lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác giả lại kể và tả tỉ mỉ những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tình yêu ấỵ không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức của một công dân. Nó gắn liền với tình cảm dành cho kháng chiến và đối với Cụ Hồ, được thể hiện thật cảm động khi ông giãi bày tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông”. Những lời bộc lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đốì với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha của ông Hai. Tình cảm của một người nông dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

Niềm vui sướng vỡ òa khi ông Hai biết rằng làng mình vẫn là làng Kháng chiến Không còn nỗi tủi nhục đè nặng trong lòng, ông lại tiếp tục khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi, trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái Làng của ông”. Người nông dân vốn gắn bó với nhà cửa ruộng vườn... Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bắt gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”, ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian. Làng vẫn là tình yêu, là niềm tự hào tha thiết của ông Hai. Nhà ông bị đốt hết nhưng như thế có là gì. Đó chỉ là một phần ông cống hiến cho đất nước. Tài sản riêng mất mát nhưng cách mạng, đất nước sẽ vững mạnh hơn, đó mới thực sự là niềm vui, là hạnh phúc.

Tình yêu làng, yêu nước, hòa quyện trong tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. Làng của Kim Lân là một khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà những người lao động nghèo là những thanh âm trong trẻo, réo rắt nhất, để lại bao dư âm lắng đọng trong lòng độc giả.

vô trang mình 5 sao nha
4
1
Quỳnh Anh Đỗ
20/05/2018 07:44:00
Những ai đã đọc Làng đều cảm nhận được ở ông Hai tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê hương. Đối với người nông dân chất phác ấy, tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Cũng như bao người dân lao động khác, cả một đời ông Hai gắn bó với mảnh đất quê nghèo mà nặng sâu ân tình. Cái làng Chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những .nét quen thuộc vừa có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, thậm chí yêu cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Dầu của ông có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hat thóc đất... Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đả làm nên bề dày lịch sử của làng ông. Nhưng tình yêu làng của người nông dân ấy không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự biến chuyển của thời đại. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tưởng mới chiếu rọi tâm hồn ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia đều đáng căm thù; niềm tin về làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quán sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vào gậy tham gia; những hố, những ụ, những hào ,chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt cho đến điều lớn lao, đều trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Qua những lời khoe của ông Hai, ta có cảm tưởng như cảnh vật, làng xóm đã hằn in trong ông chiếm trọn con tim, khối óc người nông dân ấy. Yêu làng, ông Hai có nhu cầu thể hiện, thổ lộ tình yêu ấy với tất cả mọi người. Đi đến đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Ông say sưa kể về làng của mình mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Mỗi khi bắt đầu nói về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mắt biến chuyển”. Chỉ một chi tiết ấy thôi, Kim Lân đã khắc họa thành công tình cảm thiêng liêng của ông Hai dành cho mảnh đất quê mình. Tình yêu ấy luôn ấm nóng trong trái tim ông và càng trở nên mạnh mẽ hơn khi ông phải xa làng. Trong những ngày xa quê, sống nơi sơ tán xa lạ. chính tình yêu làng đã trở thành sức mạnh trong ông. Những khi mệt nhọc, chỉ cần nghĩ về làng, kể chuyện làng là ông quên hết tất cả. Nếu như cuộc sống cứ diễn ra yên bình như thế thì tình yêu làng của ông Hai mới chỉ là “tâm lí làng xã” của những người dân quê Việt Nam - những con người cả đời gắn bó với luỹ tre, cây đa, bến nước, sân đình; yêu nơi “chôn rau cắt rốn” bằng một tình yêu bản năng, máu thịt. Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây. Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. ở người nông dân ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước: Ta bắt gặp ở đây chân lí về cội nguồn của lòng yêu nước theo quan điểm của nhà văn Liên Xô (cũ) I. Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất.. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”'. Nghe tin làng theo giặc, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân.., ông lão lảng đi, tưởng như không thể thở được”. Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau, ông tự giày vò, ông hoài nghi rồi lại tự nhủ mình phải tin vì mọi chuyện đã hết sức rõ ràng. Cuốì cùng, ông cay đắng rít lên: “Chúng bay ăn miệng cơm hay ăn miệng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này...”. Tiếng rít ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Trong ông đang có cuộc giằng co dữ dội: Ông yêu làng, làng ông đáng tự hào là thế, mà giờ lại theo Tây. Tình cảm của ông phải thế nào đây? Nhưng sự giằng co- ấy nhanh chóng đi đến kết luận: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì ta phải thù”. Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thế yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết... tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc họa rõ nét hơn bức chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ông thấy tủi hổ vì niềm tự hào bấy lâu nay của ông giờ thành ra như thế. Ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi”, ông thương lũ con ông vì chúng có một quê hương đáng xấu hổ: “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”. Suốt những ngày đó, ông không dám đi đâu, chỉ “nằm rũ ở trên giường, không nói gì”, “quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội mà nghe ngóng”, lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác giả lại kể và tả tỉ mỉ những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tình yêu ấỵ không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức của một công dân. Nó gắn liền với tình cảm dành cho kháng chiến và đối với Cụ Hồ, được thể hiện thật cảm động khi ông giãi bày tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông”. Những lời bộc lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đốì với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha của ông Hai. Tình cảm của một người nông dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Niềm vui sướng vỡ òa khi ông Hai biết rằng làng mình vẫn là làng Kháng chiến Không còn nỗi tủi nhục đè nặng trong lòng, ông lại tiếp tục khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi, trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái Làng của ông”. Người nông dân vốn gắn bó với nhà cửa ruộng vườn... Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bắt gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”, ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian. Làng vẫn là tình yêu, là niềm tự hào tha thiết của ông Hai. Nhà ông bị đốt hết nhưng như thế có là gì. Đó chỉ là một phần ông cống hiến cho đất nước. Tài sản riêng mất mát nhưng cách mạng, đất nước sẽ vững mạnh hơn, đó mới thực sự là niềm vui, là hạnh phúc.
6
0
Bơ Kem
11/01/2023 19:42:13

     Sinh ra và lớn lên ở làng Phù Lưu thuộc tỉnh Bắc Ninh, một làng quê đẹp, thơ mộng, vốn nổi tiếng giàu truyền thống văn hoá, nên ngay từ thuở thiếu thời nhà văn Kim Lân đã rất yêu và am hiểu sâu sắc về làng quê của mình. Trước và sau Cách mạng tháng Tám, ông đã có rất nhiều bài viết đặc sắc về làng quê và cuộc sống của người nông dân Việt Nam. Trong số đó, ta có thể kể đến tác phẩm “Làng”, một truyện ngắn đặc sắc được ông sáng tác trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nổi bậc lên trong tác phẩm là tấm lòng yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai đã được khẳng định rõ ràng qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của nhân vật ông Hai sau khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

     Truyện ngắn Làng khai thác một tình cảm lớn, bao trùm và phổ biến trong mỗi con người Việt Nam thời kháng chiến đó là tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng. Đó là một tình cảm mang tính cộng đồng ai cũng có những sự thành công của Kim Lân là đã diễn tả một cách sinh động, sâu sắc tình cảm chúng ấy trong một con người cụ thể, đó là nhân vật ông Hai.

     Trước hết, nổi bật ở ông Hai là tình cảm yêu làng nồng nàn tha thiết, gắn bó máu thịt với mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên. Ông luôn tự hào về làng quê của mình. Đi đâu, gặp ai ông cũng khoe về làng của ông mà không biết chán, biết mệt. Ông tự hào vì làng chợ Dầu của ông là một trong những làng sầm uất nhất tỉnh. Con đường làng toàn lát đá xanh, dù trời mưa bùn cũng không dính gót. Mùa khô, phơi thóc, phơi rơm tốt thượng hạng. Phòng thông tin rộng rãi và sáng sủa nhất vùng.. Đài phát thanh cao bằng ngọn tre

     Những gì ông Hai tự hào về làng quê của mình đối với người khác có thể họ sẽ thấy tầm thường vụn văt, không có gì đáng để tự hào nhưng đối với ông Hai, ông lại tự hào về tất cả những thứ đó bởi ông mang trong mình một tình yêu làng nồng nàn tha thiết. Đối với ông cái gì của làng cũng đẹp, cũng hay, cũng đáng để tự hào, ca ngợi.

     Yêu làng một cách mãnh liệt, đôi lúc ông có những hành động, suy nghĩ lệch lạc, thái quá. Ông vẫn luôn tự hào về cái sinh phần của viên quan tổng đốc trong làng. Nó to lớn bề thế mà không có một làng nào có được. Ông đã từng dẫn một người bà con xa đến xem để mà ca ngợi, khâm phục. Mãi sau ông mới hiểu ra rằng cái sinh phần ấy để có được nó là biết bao mồ hôi, công sức và xương máu của người dân trong làng. Nó đã gây ra đau khổ cho làng ông và bản thân ông mà ông không hề hay biết.

     Từ hồi tản cư, sống trong không khí kháng chiến, tình yêu làng trong ông Hai bắt đầu có sự thay đổi, chuyển biến. Yêu làng, nhưng ông không còn tự hào về những cái tầm thường, vụn vặt ấy nữa mà thay vào đó là niềm tự hào lớn lao về cái tinh thần kháng chiến của người làng chợ Dầu. Giờ đây ông tự hào cái làng ông đã trở thành một làng kháng chiến, cũng góp sức mình vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.

     Người làng chợ Dầu tinh thần dữ lắm. Ông vẫn còn nhớ như in ở làng ông trong những ngày kháng chiến không khi rất sôi nổi tươi vui, nào đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá; ngay cả những cụ già râu tóc bạc phơ cũng vác gậy tập một, hai. Chao ôi, độ ấy sao mà vui thế, ông thấy mình dường như trẻ lại, cũng đào đường đắp ụ, hát hỏng, bong phèn suốt cả ngày cùng anh em trai tráng trong làng mà không biết mệt, biết chán.

     Chính vì vậy mà ta chợt hiểu vì sao trong những ngày xa làng đi tản cư, xa rời bầu không khí tươi vui ấy, ông Hai cảm thấy buồn bã, bứt rứt, ông nhớ quay quắt cái làng quê của mình. Cho nên sau mỗi buổi tối, khi cơm nước xong xuôi, ông liền chạy sang nhà bác Thứ, kể lể chuyện làng mình cho khuây khoả nỗi nhớ.

     Tình yêu nước, yêu kháng chiến, yêu cách mạng thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Ở nơi tản cư, xa làng, xa anh em đồng chí, ông Hai lo lắng cho tình hình cách mạng. Ngày ngày ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức. Từ tin tức nghe được, tinh thần kháng chiến của nhân dân bồi dưỡng thêm tình yêu làng, yêu nước ở ông hai. Ông khâm phục những hành động vô cùng dũng cảm của những con người sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì nhân dân, đất nước. Đó là hình ảnh “một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa”, là sự hi sinh anh dũng của “một anh đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc”. Ông hả hê trước những thất bại của kẻ thù. Cứ mỗi lần nghe thấy ở đâu quân ta thắng lớn, giặc thua to thì “ruột gan ông cứ múa cả lên.”

     Yêu nước ông tin tưởng vào tương lai tiền đồ của đất nước, tin tưởng vào lãnh tụ. Ông tin rằng chẳng mấy chốc thằng Tây sẽ cút khỏi đất nước của mình, người dân lại được sống lại những tháng ngày hoà bình êm ấm. Nhưng có lẽ tình yêu làng, yêu nước yêu kháng chiến nồng nàn tha thiết của ông Hai thể hiện rõ ràng nhất là khi ông nghe tin làng chợ Dầu của mình theo giặc, trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, kịch liệt.

     Qua lời nói chuyện của người đàn bà vừa ở dưới quê mới lên, cái tin làng chợ Dầu theo giặc nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Ông hai như chết lặng khi nghe cái tin dữ ấy. Bao nhiêu nỗi vui mừng hân hoan phần khởi ban nãy dường như tan biến mà thay vào đó là tâm trạng buồn bã, đau đớn, nhục nhã.

     Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đến một cách bất ngờ đột ngột quá khiến ông không khỏi bàng hoàng, sửng sốt, không nói được một lời nào, có cái gì đó đau đớn, tức tưởi, nhục nhã, xấu hổ. Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Đến khi bình tĩnh trở lại, không tin điều đó là sự thật ông hỏi đi hỏi lại người đàn bà kia nhưng bà ta cứ đinh ninh khẳng định mình “vừa ở dưới ấy lên” thì làm sao mà lầm được. Với lại bà ta kể lại rành rọt quá nào là Tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô, nào là thằng chánh Bệu,..toàn những người làng cả làm sao mà không tin cho được.

     Lúc về đến nhà ông “nằm vật ra giường”, “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Ông xót xa khi nghĩ đến một ngày con mình sẽ bị người ta coi thường, rẻ rúng, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian bán nước. Xấu hổ nhục nhã biết chừng nào. Nó chỉ mới có mấy tuổi đầu nào có tội tình gì! Càng thương con ông càng căm ghét những kẻ Việt gian bán nước trong làng. Chúng ăn cái giống chi mà không biết suy nghĩ thiệt hơn lại đi làm cái chuyện phản dân hại nước để rồi gây ra biết bao đau khổ, nhục nhã cho ông và cho biết bao người dân vô tội trong làng.

     Ông lo lắng không biết cuộc sống của cả gia đình mình rồi đây sẽ ra sao. Những suy nghĩ cứ luẩn quẩn trong đầu óc: “Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Đau đớn, buồn bã, đêm đến ông cứ thao thức trằn trọc không ngủ được. Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài ngao ngán.

     Rồi suốt mấy ngày sau đó, ông cứ quanh quẩn ru rú trong nhà chẳng dám nhìn mặt ai. Thấy một đám đông túm lại ông cũng để ý, chột dạ vì nghĩ rằng người ta đang bàn tán đến chuyện ấy. Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ. Rõ khổ, nếu ông không yêu cái làng của mình một cách nông nàn chân thành tha thiết thì có lẽ ông đã không phải khổ sở đến thế.

     Khi mụ chủ nhà nghe phong phanh làng chợ Dầu theo giặc và có ý không muốn cho vợ chồng ông ở lại nhà mình nữa, ông cũng không phiền hà trách giận bởi ông biết: không chỉ riêng ở cái đất Thắng này mà ở đâu có người chợ Dầu, người ta cũng sẽ đuổi như đuổi hủi. Và dẫu cho có chính sách của cụ Hồ, người ta chẳng đuổi đi chăng nữa thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu. Đến lúc ấy thì quả thật là tuyệt đường sinh sống.

     Bị đẩy đến bước đường cùng, không còn cách nào khác ông đã từng nghĩ đến việc trở về làng. Nhưng khi ý nghĩ đó vừa loé lên thì ông lão đã vội gạt đi: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến bỏ cụ Hồ”. Thì ra cái lý do khiến ông lão băn khoăn lưỡng lự không muốn trở về làng chính là chỗ ấy “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, là quay lưng lại với đồng bào, đồng chí nhân dân, cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Ta nghe đâu đây tiếng nói của ông Hai đầy đau đớn, tức tưởi nhưng cũng rõ ràng, dứt khoát: “Không làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

     Kim Lân đã để cho nhân vật của mình trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng vô cùng quyết liệt để rồi cuối cùng đi đến một quyết định vô cùng khó khăn, đau đớn. Đó là phải từ bỏ làng quê của mình để một lòng một dạ thuỷ chung với cách mạng, với Bác Hồ. Đối với ông Hai và biết bao người dân quê ngày đó làng là nơi rất đổi thiêng liêng, là mảnh đất nơi ta đã sinh ra và lớn lên chất chứa bao kỉ niệm, là nguồn cội tổ tiên, gia đình, quê hương bản quán mà tưởng chừng như suốt cuộc đời không thể nào từ bỏ được. Vậy mà cuối cùng con người cũng phải đành đoạn từ bỏ nó. Chính cái quyết định đầy đau đớn ấy đã nói lên rằng trong trái tim của mỗi người nông dân ngày đó.

     Ngoài tình yêu làng họ còn có một tình yêu khác lớn lao hơn, mãnh liệt hơn đó là tình yêu đất nước, yêu kháng chiến. Vì đất nước, họ sẵn sàng từ bỏ những gì minh yêu quý mà không hề tiếc nuối. Kim Lân đã kịp thời phát hiện, trân trọng và ngợi ca những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Ở họ, tình yêu làng hòa quyện trong tình yêu đất nước. Vì tổ quốc thiêng liêng, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, họ có thể từ bỏ tất cả.

     Cái hay của nhà văn Kim Lân không chỉ dừng lại ở đó. Ông miêu tả cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của nhân vật ông Hai một cách thật sâu sắc kể từ khi quyết định bỏ làng của mình. Từ sau khi quyết định từ bỏ làng quê của mình, buồn bã quá không biết tâm sự cùng ai, ngày ngày ôm thằng con Út vào lòng trò chuyện cùng nó. Có thể nói, khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai.

     Để vợi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và yên tâm về quyết định của mình, ông Hai tâm sự với đứa con trai út (thằng Húc). Qua lời tâm sự với con, ông Hai bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu (nhà ta ở làng Chợ Dầu), bày tỏ tấm lòng thủy chung son, sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ (chết thì chết có bao giờ dám đơn sai), một lòng sống vì đất nước (làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù). Dù cái tin làng chợ Dầu theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này.

     Ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng thống nhất, hòa quyện trong tình yêu nước. Từ tình yêu làng, yêu nước tự nhiên, thiết tha (tình yêu làng, yêu nước tự phát), chuyển biến lên thành tình yêu làng, yêu nước sâu đậm nhờ sự soi rọi của lý tưởng cách mạng (tình yêu làng, yêu nước tự giác, có ý thức). Tình yêu nước, lợi ích của đất nước được đặt cao hơn tình làng và lợi ích của cá nhân ông Hai. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại cách mạng. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp sớm giác ngộ và đứng về phía cách mạng.

     Qua những lời nói đầy cảm động, thiết tha và nội tâm mãnh liệt, tác phẩm khẳng định mạnh mẽ tinh thần yêu kháng chiến, yêu cách mạng, yêu lãnh tụ của nhân vật ông Hai. Ông hỏi con cũng là tự hỏi mình. Câu trả lời của con cũng chính là câu trả lời của chính lòng ông đó thôi.

     Nhưng rồi cái tin làng chợ Dầu theo giặc chỉ là một tin đồn thất thiệt. Thế là sau bao ngày tháng đau khổ giờ đây “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông đi khắp nơi cải chính với mọi người cái tin làng chợ Dầu theo giặc, nào là Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa…cho biết…cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo. Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả.”. Đi đến đâu ông lão cũng bô bô như thế.

     Có một điều thật lạ, Tây nó đốt nhà ông rồi. Mai mốt trở về lấy gì mà làm ăn sinh sống? Cả một đời lao động nhọc nhằn vất vả, tích cóp dành dụm mới có được mái nhà để dung thân, bây giờ Tây đốt nhẵn có, gia tài sản nghiệp tan thành mây khói . Nhưng ông lão vẫn cứ cười một cách sung sướng. Ông nào có tiếc nuối về cái nhà của mình, cái ông quan tâm đó là làng chờ Dầu không theo giặc. Từ đây, ông có thể ngẩng cao đầu mà sống, ông lại có thể tiếp tục khoe khoang làng của mình còn chuyện nhà mình có bị Tây nó đốt cũng chẳng sao, ông chẳng hề bận tâm lo lắng.

     Chính chi tiết này một lần nữa nhà văn Kim Lân đã cho thấy tình yêu làng yêu nước nồng nàn của ông Hai nói riêng và của những người nông dân ngày đó nói chung. Yêu làng yêu nước con người có thể hi sinh những quyền lời của cá nhân mình mà không hề tiếc nối. Chính tình yêu làng yêu nước chân thành thắm thiết ấu đã biến thành sức mạnh giúp cho bao người nông dân ngày đó sẵn sàng xả thân mình để bảo vệ đất nước. Chính họ với những tình cảm cao đẹp chất phác đó đã biến họ thành những người anh hùng của thời đại, chính họ đã làm ra đất nước.

     Làng được coi là một trong những truyện ngắn rất đặc sắc và tiêu biểu của Kim Lân về đề tài người nông dân sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói, qua truyện ngắn này, với nhân vật ông Hai, ông đã khắc hoá thành công hình tượng một người nông dân giàu lòng yêu làng, yêu nước yêu cách mạnh với những diễn biến nội tâm vô cùng cụ thể, sinh động và mãnh liệt. Từ niềm vui mừng hân hoan trước những thắng lợi của quân ta và sự thất bại thảm hại của quân thù, cho đến nỗi xẩu hổ nhục ngã khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, từ thái độ căm ghét, giận dữ đối với bọn Việt gian bán nước trong làng cho đến

     Kim Lân rất thành công trong nghệ thuật tự sự, sử dụng ngôn ngữ nhân vật bình dị, đậm chất dân dã được lấy từ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của người bình dân chân thật. Nhà văn đã để cho nhân vật nói năng, hành động, suy nghĩ một cách rất tự nhiên chân thật, gần gũi để từ đó gợi lên biết bao tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn những đặc điểm về tính cách, trình độ văn hoá xuất thân của nhân vật. Kim Lân đã sử dụng một cách khéo léo làm cho câu chuyện thêm phần sinh động hấp dẫn, thú vị. Phải yêu tha thiết và am hiểu, gắn bó với làng quê của mình thì ông mới có được cái vốn ngôn ngữ dân gian sinh động phong phú, đa dạng ấy.

     Cũng khai thác về hình tượng người nông dân, so với những tác phẩm trước đây, người ta thấy có những chuyển biến mới mẻ trong tình cảm của người nông dân thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở truyện ngắn Làng, ta không còn hiện tượng trong tư thế của một kẻ bị áp bức bóc lột, cuộc sống đói nghèo, làm lũ, có gì đó tầm thường, nhỏ hẹp, bế tắc; quanh năm chỉ làm bạn với con trâu cái cày ruộng vườn, sống quẩn quanh chật hẹp. Giờ đây, con người trở nên lớn lao hơn bởi họ mang trong mình sức mạnh và những tình cảm lớn của thời đại, không còn là cuộc đời của những con người tầm thường, nhỏ bé nữa. Cuộc sống của họ, số phận của họ gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc. Người nông dân đã nhận ra sứ mệnh lịch sử lớn lao của mình trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước trước kẻ thù xâm lược.

     Khắc họa cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của nhân vật ông Hai, Kim Lân đã không hề tô vẽ, không biến nhân vật thành một người phát ngôn cho chính sách của cách mạng. Với cách kể chuyện chân thực, xúc động, nhà văn từng bước thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật ông Hai. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo