Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài: Đọc "Tiểu thanh kí" số 2

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
533
0
0
CenaZero♡
05/08/2017 01:12:21
ĐỌC "TIỂU THANH KÍ"
(Độc “Tiểu thanh kí”)
NGUYỄN DU
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Độc “Tiểu Thanh kí” nằm ở cuối Thanh Hiên thi tập, tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Bài thơ có liên hệ với Tiểu Thanh kí trong Tiểu Thanh truyện với nhân vật Tiểu Thanh, một người tài hoa bạc mệnh.
2. Với nghệ thuật sáng tạo ngôn từ, hình ảnh hàm súc cao độ, bài thơ thể hiện nổi bật tâm trạng xót thương, day dứt của Nguyễn Du đối với nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Tiểu Thanh có sắc, lại có tài (thơ phú văn chương) thế nh­ưng cuộc đời của nàng lại gặp quá nhiều bi kịch (phải làm lẽ, bị dập vùi, tr­ước tác bị đốt dở dang). Số phận hẩm hiu, đau khổ của nàng chính là lí do khiến Nguyễn Du cảm thương chia sẻ. Đồng thời cũng từ bi kịch của Tiểu Thanh, nhà thơ suy nghĩ về định mệnh nghiệt ngã của những người có tài văn chư­ơng, nghệ thuật.
2. Trong câu thơ dịch, chữ "nỗi hờn" (nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi) ch­a diễn đạt đ­ược hết ý nghĩa của hai từ "hận sự". Vậy mối hận "cổ kim" ở đây nghĩa là gì? Đó là mối hận của người x­a (nh­ư Tiểu Thanh) và ngư­ời thời nay (những ng­ười phụ nữ "hồng nhan bạc mệnh" đang sống cùng thời với Nguyễn Du, thậm chí cả những con ng­ười có tài năng thơ phú nh­ư nhà thơ Nguyễn Du nữa). Họ đều là những người đã gặp bao điều không may trong cuộc sống. Từ đó, nhà thơ của chúng ta cho rằng: Có một thông lệ vô cùng nghiệt ngã đó là ông trời luôn bất công với những con ng­ười tài sắc. Sự bất công ấy đâu chỉ đến với riêng người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Tiểu Thanh mà còn là nỗi hận của bao người (những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...). Nỗi hận ấy từ hàng trăm năm nay đâu có gì thay đổi. Bởi vậy nó như­ một câu hỏi lớn không lời đáp cứ treo lơ lửng giữa không trung đến "ông trời" cũng "không hỏi đ­ược".
3. Giá trị nhân bản đặc sắc của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề về quyền sống của ngư­ời nghệ sĩ. Từ sự thư­ơng xót và đồng cảm với Tiểu Thanh, nhà thơ muốn gửi gắm sự trân trọng của mình đến những ng­ười nghệ sĩ nói chung - những chủ nhân của những giá trị tinh thần. Bày tỏ sự cảm thông chia sẻ với họ là một dấu hiệu tiến bộ trong chủ nghĩa nhân bản của Nguyễn Du. Tình thư­ơng yêu và sự quan tâm của nhà thơ lúc ấy đã v­ượt qua những giới hạn về không gian và thời gian. Nó không chỉ là sự quan tâm chia sẻ với những con ngư­ời bất hạnh (những cảnh đói cơm, rách áo) mà hơn thế nữa còn là sự thư­ơng yêu và trân trọng con ng­ười nói chung.
4. Có thể chia bài thơ thành bốn phần, mỗi phần lại có vai trò riêng trong việc thể hiện chủ đề của bài thơ.
Hai câu thơ đầu là hai câu tả cảnh để mà kể việc. Từ quang cảnh hoa phế ở Tây Hồ, người đọc liên tư­ởng đến cuộc đời thay đổi. Hai câu này cũng nêu ra hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc của nhà thơ (phần "di cảo" thơ của Tiểu Thanh).
Hai câu thực nêu lên những suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh thông qua hai hình ảnh ẩn dụ son phấn (vẻ đẹp) và văn chư­ơng (tài năng).
Hai câu luận bắt đầu khái quát, nâng vấn đề, liên hệ thân phận của nàng Tiểu Thanh với những bậc văn nhân tài tử trong đó có nhà thơ.
Hai câu kết là tiếng lòng của nhà thơ mong tìm thấy một tiếng lòng đồng cảm của ngư­ời đời sau.
5. Đoạn thơ :
Rằng : Hồng nhan tự thủa xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Là lời của Thúy Kiều nói về nhân vận Đạm Tiên. Khi thấy chị sụt sùi trước mộ của Đạm Tiên, Thúy Vân đã nói:
Vân rằng: "Chị cũng nực cư­ời"
Khéo d­ư nư­ớc mắt khóc người đời x­a. Nghe xong câu này, Thúy Kiều đã nói những câu trên để đáp lời Thúy Vân. Tuy nhiên trong Truyện Kiều có rất nhiều đoạn đối thoại bắt đầu bằng từ "rằng" nh­ư ở đoạn thơ này. Trong tr­ường hợp ấy, người ta cũng có thể hiểu đó là lời của tác giả (Nguyễn Du). Căn cứ vào nội dung của đoạn thơ, có thể thấy đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các sáng tác của ông là hình ảnh những con ngư­ời tài hoa mà bạc mệnh. Tham khảo thêm:
+ Hướng dẫn soạn bài Độc Tiểu Thanh Ký số 1

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nga
11/04/2021 21:33:08
+4đ tặng
2.1. Soạn bài tóm tắt

Câu 1: Theo anh (chị), vì sao Nguyễn Du lại xót thương cho số phận của Tiểu Thanh?

  • Nguyễn Du đồng cảm với số phận của Tiểu Thanh vì:
    • Ông là một người có lòng thương sâu sắc đối với con người, đặc biệt là những người khổ cực, bất hạnh, bị xã hội chà đạp.
    • Ông thương cho số phận của Tiểu Thanh một người phụ nữ tài sắc mà phải hứng chịu những nỗi đau quá lớn, đặc biệt là khi chết đi rồi mà thơ vẫn bị đốt.

Câu 2: Câu “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi” có nghĩa là gì? Nỗi hờn (hận) ở đây là gì? Tại sao tác giả cho là không thể hỏi trời được?

  • “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi”: những nỗi hận từ trước đến nay khó mà hỏi trời được.
  • Nỗi hờn (hận) ở đây ý chỉ nỗi oan của những người tài hoa mà mệnh bạc.

Câu 3: Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều đó nói gì về tấm lòng của nhà thơ?

  • Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều này cho thấy Nguyễn Du có một tấm lòng nhân đạo bao la và sâu sắc.

Câu 4: Phân tích vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận, kết) đối với chủ đề toàn bài?

  • Vai trò của từng đoạn:
    • Hai câu đề: mở bài: nêu lên khung cảnh gợi cảm hứng và hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
    • Hai câu thực: nêu lên những suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh.
    • Hai câu luận: khái quát, nâng vấn đề và liên hệ thân phận của nàng Tiểu Thanh với những bậc văn nhân tài tử, trong đó có bản thân nhà thơ.
    • Hai câu kết: tiếng lòng của nhà thơ mong tìm được sự đồng cảm của người đời sau.

⇒ Như vậy từng đoạn đều nằm trong cảm hứng chung của bài thơ: sự xót thương và cảm thông với số phận của người con gái Tiểu Thanh, từ đó chạnh lòng mà nghĩ đến số phận của mình.

2.2. Soạn bài chi tiết

Câu 1: Theo anh (chị), vì sao Nguyễn Du lại đồng cảm với số phận Tiểu Thanh?

  • Nguyễn Du lại đồng cảm với số phận Tiểu Thanh vì: 
    • Nguyễn Du là một người có lòng thương người sâu sắc. Ông thương những người khổ cực, những số phận bất hạnh bị chà đạp trong xã hội cũ. Trong những con người đó, Nguyễn Du đặc biệt thương xót những người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, và nỗi thương xót đó đã thành một cảm hứng lớn trong sáng tác của ông (“Đau đớn thay phận đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” - Truyện Kiều). Đó là lí do chung khiến ông đồng cảm với nhiều số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc trong sáng tác của mình.
  • Bên cạnh đó, còn có lí do riêng đối với trường hợp cụ thể của nàng Tiểu Thanh. Thường thì những người “cùng hội cùng thuyền” bao giờ cũng dễ đồng cảm với nhau ở mức da diết, sâu sắc. Nguyễn Du và Tiểu Thanh chính là những người như vậy: 
    • Nguyễn Du là người tài hoa, giỏi văn thơ nhưng cuộc đời lận đận, không may mắn. Có thể nói ông đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió...
    • Nàng Tiểu Thanh cũng là người phụ nữ tài sắc, giỏi văn chương, âm nhạc, nhưng số phận cũng bất hạnh, chết sớm vì đau buồn ở tuổi 18; chết rồi mà thơ vẫn bị đốt. → Đây là lí do chủ yếu, quan trọng nhất khiến Nguyễn Du đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh. Câu thơ “Phong vận kì oan ngã tự cư” đã nói rõ điều đó: Nguyễn Du đồng cảm với thân phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh vì ông cũng có thân phận tương tự (“Ta tự thấy là người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”; dịch thơ: Cái án phong lưu khách tự mang. Đó là sự đồng cảm tự nhiên mà sâu sắc của những người “cùng hội cùng thuyền”)

Câu 2: Câu "Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi" có nghĩa gì? Nỗi hờn (hận) ở đây là gì? Tại sao tác giả cho là không thể hỏi trời được?

  • Câu "Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi" có nghĩa:
    • Ta có thể hiểu “nỗi hờn kim cổ” là bản dịch thơ dựa theo ý nghĩa của cụm từ: “Cổ kim hận sự” (nghĩa là: nỗi hận xưa nay). Qua cụm từ đó, ta thấy được cảm nhận của tác giả đối với nỗi oan tình của Tiểu Thanh là rất bất bình trước sự đối đãi bất công của số mệnh với người có tài năng. Nhà thơ có ý nói tới sự nghiệt ngã của tạo hóa luôn đối xử bất công với kẻ sĩ tài hoa là điều trước nay được nhiều nho sĩ dằn vặt, tự vấn mà không cách nào tìm ra lời đáp. Và nỗi đau khổ của người tài hoa bạc mệnh là nỗi buồn chung, nỗi hận chung mà kẻ sĩ trong thời đại nào cũng mang nặng.
    • Tác giả cho là “khó có thể hỏi trời” – trong nguyên tác là  “thiên nan vấn”, vì theo thi nhân, đây là nỗi khổ đã định sẵn cho cuộc đời người tài hoa, bởi con người có tài ấy đã làm trời xanh phải “ganh ghét” nên dù có làm cách nào thì con người khó mà làm thay đổi được số mệnh ấy. Tư tưởng này thể hiện sự bất lực của người xưa trước những bất công trong xã hội cũng là sự bất lực trước định kiến xã hội đối với người phụ nữ, nhất là người phụ nữ có tài sắc vẹn toàn.
    • Trong bài thơ, Nguyễn Du viết: “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” nghĩa là nỗi hận đó từ xưa tới nay đều không thể giải đáp được, hỏi trời không thấu, hỏi đất không hay. Nguyễn Du đã khơi gợi lại nỗi đau muôn thuở của con người trước số phận, sự bất lực của người đối với vận mệnh trái ngang, nghiệt ngã.
  • Tác giả cho là không thể hỏi trời được là vì:
    • Từ xưa đến nay, luôn có một thông lệ vô cùng nghiệt ngã đó là ông trời luôn bất công với những con người tài sắc. Sự bất công ấy đâu chỉ đến với riêng người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Tiểu Thanh mà còn là nỗi hận của bao người (những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...). Nỗi hận ấy từ hàng trăm năm nay đâu có gì thay đổi. Nỗi đau khổ dằn vặt tâm tư con người bao thời, tạo thành nỗi oan ức dường như không thể tìm được lời giải đáp nào tốt hơn ngoài: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” và con người trở nên bất lực trước cuộc đời, dù là tài hoa tới đâu vẫn phải chấp nhận số phận của mình mỏng manh, bất hạnh. Chính vì không thể giải đáp được sự bất công, ngang trái ấy nên con người mới phụ thuộc vào lực lượng thần linh tối cao trên trời mong tìm được lời giải đáp nhưng thực ra cũng không thể hỏi được trời, lại đi vào nỗi buồn quẩn quanh không biết làm thế nào mới giải đáp được, biến nỗi oan hờn đó thành: “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi".

Câu 3: Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều đó nói gì về tấm lòng của nhà thơ?

  • Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh, điều đó nói gì về tấm lòng:
    • Nguyễn Du không chỉ thương cảm và đồng cảm với riêng số phận của nàng Tiểu Thanh mà còn thể hiện sự thương cảm và đồng cảm với những người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh nói chung.
    • Trước câu chuyện đã xảy ra rất lâu của một nữ sĩ có tài văn chương nhưng đoản mệnh, sống từ thời nhà Minh ở Trung Quốc (khoảng TK XVI), nhà thơ vẫn không khỏi xúc động tới mức viết thành một bài thơ. →  Nguyễn Du mang một tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng thương người, tinh thần nhân đạo sâu sắc với số phận của con người. Niềm cảm thương đó của Nguyễn Du đã vượt qua mọi ranh giới không gian và thời gian, không những dành cho người phụ nữ mà còn dành cho kẽ sĩ có tài mà không được trọng dụng, có tài mà số phận bấp bênh, nhiều ngang trái.

⇒ Tấm lòng của Nguyễn Du có một cảm xúc nhân đạo bao la và sâu sắc.

Câu 4: Phân tích vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận, kết) đối với chủ đề toàn bài.

  • Thơ Đường luật (thất ngôn bát cú hay tứ tuyệt) là một chỉnh thể nghệ thuật có kết cấu chặt chẽ gồm 4 đoạn thơ (4 phần) là khai, thừa, chuyển, hợp (còn gọi là đề, thực, luận, kết). Ở bài thất ngôn bát cú, mỗi đoạn gồm 2 câu thơ (một cặp câu thơ) 
  • Mỗi đoạn thơ giữ một vai trò trong kết cấu bài thơ, có mối liên hệ lôgíc bên trong để bộc lộ chủ đề của tác phẩm.
  • Ở bài Đọc Tiểu Thanh kí, có thể thấy vai trò của từng đoạn thơ như sau:
    • Đề (câu 1, 2): mở bài: nêu khung cảnh gợi cảm hứng và hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
    • Thực (câu 3, 4): nói về nhân vật của bài thơ (nàng Tiểu Thanh khi đã chết nhưng tài sắc và văn chương thì vẫn còn đó).
    • Luận (câu 5, 6): nghĩ về mối hận của nàng và tỏ lòng đồng cảm của người cùng một hội với nàng.
    • Kết (câu 7, 8): trông người mà nghĩ đến ta, không biết số phận rồi sẽ ra sao
  • Bốn đoạn thơ đều nằm trong mạch cảm hứng chung của nhà thơ là xót thương và cảm thông với số phận của người con gái tài sắc mà bất hạnh, từ đó mà chạnh nghĩ đến số phận của mình trong cuộc đời. Sự nối tiếp và phát triển lôgíc của bốn đoạn thơ đã bộc lộ sâu sắc và thấm thìa chủ đề của tác phẩm.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×