Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài người cầm quyền khôi phục uy quyền

4 trả lời
Hỏi chi tiết
1.053
0
0
Tôi yêu Việt Nam
01/08/2017 01:39:31
Soạn bài người cầm quyền khôi phục uy quyền của V.Huy-Gô
(trích Những người khốn khổ)
I. Gợi ý trả lời câu hỏi.
Câu 1. Nghệ thuật đối lập hai nhân vật Giăng Văn-giăng và Gia-ve qua đối thoại, qua hành động.
Ngôn ngữ hành động
Tình huống
Gia-ve
Giăng Van-giăng
Trước khi Phăng-tin tắt thở
Ngôn ngữ và hành động man rợ, điên cuồng, hung hãn đối với Giang Van-giăng; độc ác, tàn nhẫn vùi dập niềm tin và hi vọng của Phăng-tin (Phăng tin tưởng Giang Van-giăng là Thị trưởng Ma-đơ-len và nhờ thị trưởng mà chị hi vọng được gặp con trước khi chết).
Nhẹ nhàng, tinh tế trong ngôn ngữ và hành động đối với Phăng-tin và Gia-ve. Tất cả biểu hiện của ông là nhằm cứu với Phăng-tin lúc cố đang ở trong tình trạng bệnh tình nguy kịch, mong được gặp con.
Sau khi Phăng-tin tắt thở
Gia-ve tiếp tục quát tháo đòi bắt Giăng Van-giăng, không quan tâm đến cái chết của Phăng-tin (mà chính hắn là kẻ gây ra cái chết ấy). Hắn không còn lương tâm.
Phản ứng quyết liệt, khống chế Gia-ve (chứng tỏ ông không sợ Gia-ve. Trước đó ông nhún nhường, cầu xin Gia-ve tất cả là vì Phăng-tin).
- Ý nghĩa của thủ pháp tương phản nhằm làm nổi bật sự đối lập giữa thiện-ác, tốt-xấu, yêu thương – tàn bạo. Từ những hình ảnh tương phản trên tác giả muốn gửi tới người đọc thông điệp. Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.
Câu 2. Ở Gia-ve tác giả đã sử dụng một loạt chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ: Hình tượng con ác thú Gia-ve.
- Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động của hắn như con ác thú đang chuẩn bị vồ mồi (Tiếng thét “Mau lên” nghe như tiếng “thú gầm”; “phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt”; hành động “túm lấy cổ áo…”; “hắn cười phá lên., cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”…)
- Hắn mang dã tâm của loài thú (quát tháo Phăng-tin khi cô đang bệnh nặng, nói những lời kích động mạnh khiến Phăn-tin đột tử).
Ở Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy về ẩn dụ như Gia-ve. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng có thể quy chiếu về hình ảnh: Một con người chân chính – con người của tình yêu thương.
- Để cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van-giăng buộc phải tự thú.
- Khi Phăng-tin chết “trong nét mặt và dáng điệu ông cho thất một nỗi thương xót khôn tả”.
- Lời thì thầm bên tai người đã chết là những lời hứa (về sau ông đã thực hiện được lời hứa đó).
Câu 3. Những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa qua đoạn trích:
- Phăng-tin đã chết rồi mà khi nghe những lời thì thầm của Giăng Van-giăng trên đôi môi nhợt nhạt của chị hiện lên “nụ cười không sao tả được”.
- Khi Giăng Van-giăng sửa sang thi thể Phăng-tin như “một người mẹ sửa sang cho con” thì “gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường”.
Có thể đó chỉ là ảo tưởng do người khác (bà Xơ Xem-phích và tác giả) quá xúc động trước cử chỉ, hành động của Giăng Van-giăng. Bút pháp lãng mạn giúp nhà văn làm nổi bật vẻ đẹp trong tâm hồn đầy yêu thương của Giăng Van-giăng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nguyễn Thu Hiền
05/04/2018 17:08:13

Soạn bài: Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích Những người khốn khổ)

I. Về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

   Vic-to Huy-gô (1802 – 1885) là một thiên tài nở sớm và rọi sáng từ đầu thế kỉ XIX cho tới nay.

   Các tác phẩm tiêu biểu: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chín mươi ba (1874),... Thơ ông trải dài suốt cuộc đời: Lá thu (1831), Tia sáng và bóng tối (1840), Trừng phạt và tội ác (1853)...

   Tên tuổi của Huy-gô đã được thế giới ngưỡng mộ, không chỉ do những kiệt tác của nhà văn, mà còn do những hoạt động không ngừng nghỉ vì sự tiến bộ của con người. Ông là nhà văn đầu tiên của nước Pháp khi mất được đưa chôn cất ở điện Păng - tê - ông, nơi trước đó chỉ dành cho vua chúa và các danh tướng. Năm 1985, vào dịp một trăm ngày mất của ông, thế giới làm lễ kỉ niệm Huy-gô – Danh nhân văn hóa của nhân loại.

2. Tác phẩm

   Những người khốn khổ là một bộ tiểu thuyết được nhân loại biết đến nhiều nhất trong kho tàng sáng tác “mênh mông” của Huy-gô.

   Những người khốn khổ được chia làm năm phần. Phần thứ nhất mang tên: Phăng-tin, phần thứ hai: Cô - dét; phần thứ ba: Ma - ri - uýt; phần thứ tư: Tình ca phố Pơ - luy - mê và anh hùng ca phố Xanh Đơ - ni; phần thứ năm: Giăng Van-giăng.

3. Đoạn trích

   Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền nằm ở cuối phần thứ nhất. Vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van-giăng buộc phải tự thú mình là ai, và Ma - đơ - len chỉ là một cái tên giả. Bởi vậy, ông phải đến từ giã Phăng-tin trong khi nàng chưa biết gì về sự thật tàn nhẫn...

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Nghệ thuât đối lập hai nhân vật Giăng Van-giăng và Gia-ve:

* Nhân vật Gia-ve:

a, Chân dung, tính cách của Gia-ve:

   - Bộ mặt gớm ghiếc

   - Giọng nói như tiếng thú cầm.

   - Điệu cười: ghê tởm, phô ra tất cả hai hàm răng.

=> Chân dung của một con ác thú hung bạo.

b, Ngôn ngữ và hành động của Gia ve khi tới gặp Giăng Van-giăng và Phăng-tin:

   - Khi gặp Giăng Van-giăng

       + Ngôn ngữ: giong nói thú gầm, xưng hô: mày – tao.

→ Hống hách.

       + Hành động: quát tháo, đứng lì, túm lấy cổ áo.

   - Khi gặp Phăng-tin:

       + Ngôn ngữ: quát chửi, xưng hô thô bỉ.

       + Hành động: nói toạc ra hết mọi chuyện về con gái Phăng-tin.

→ Hành động như một con thú rình mồi, là một con người vô nhân đạo, vô cảm trước nỗi đau của con người.

=> Bằng bút pháp miêu tả trực tiếp, nghệ thuật so sánh, phóng đại, ẩn dụ, tác giả đã làm lên nhân vật Gia-ve một con người ác thú.

* Nhân vật Giăng Van-giăng

a, Tính cách của Giăng Van-giăng qua đoạn trích:

   - Muốn cứu người bị bắt oan, Giăng Van-giăng tự thú.

   - Sẵn sàng bị bắt.

   - Cố gắng kéo dài thời gian đề tìm con cho Phăng-tin

b, Giăng Van-giăng con người đối lập với cái ác:

   - Giọng nói:

       + Với Gia-ve: tế nhị, nhẹ nhàng nhưng đầy uy quyền.

       + Với Phăng-tin: nhã nhặn, điềm tĩnh, quan tâm.

   - Hành động:

       + Đối với Gia-ve: biết rõ mục đích của Gia-ve → cúi đầu cầu xin → tức giận, cầm lấy thanh sắt trừng trừng nhìn Gia-ve.

       + Đối với Phăng-tin: quan tâm, ân cần, lo lắng.

=> Mục đích: Giăng Van-giăng cố gắng giữ bí mật chuyện chưa tìm được Cô - dét cho Phăng-tin, lo lắng Phăng-tin bị sốc nếu biết tin.

c, Giăng Van-giăng qua sự miêu tả gián tiếp

   - Lời cầu cứu của Phăng-tin.

   - Cảnh bà xơ Xem - pli - xơ chứng kiến cái chết của Phăng-tin.

=> Giăng Van-giăng có sức mạnh của một đấng cứu thế, cứu rỗi những con người khốn khổ.

* Ý nghĩa của thủ pháp nhằm làm nổi bật sự đối lập giữa thiện, ác, tốt xấu, yêu thương tàn bạo.

Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

   - Khi thể hiện tính cách của Gia-ve, Huy-gô đã sử dụng rất nhiều những so sánh và ẩn dụ. Đó là những so sánh có tính chất phóng đại và đều nhằm quy chiếu về một ẩn dụ. Điều đó được thể hiện qua bộ dạng, ngôn ngữ, giọng điệu: “Trong cái đệu hắn nói lên hai tiếng ấy (Mau lên) có cái gì man rợ và điên cuồng. [...]. Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”; “Gia-ve phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”.

   - Ở Giăng Van-giăng trước hết hiện lên qua ngòi bút miêu tả trực tiếp của nhà văn: “Ông bảo Phăng-tin bằng giọng hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh”, lúc lại thì thầm hạ giọng... → Nói lên sự điềm đạm của Giăng Van-giăng.

Giăng Van-giăng cũng được miêu tả gián tiếp qua những lời cầu cứu của nhân vật Phăng-tin: hình ảnh Giăng Van-giăng của Phăng-tin như là một anh hùng, như là một cứu tinh. Giăng Van - Giăng còn hiện lên rất đẹp qua cảm nhận của bà xơ Xem - pli – xơ: “lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin bà trông thất rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”.

Câu 3 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Đoạn văn từ câu “Ông nói gì với chị?” đến câu “có thể là những sự thực cao cả” là phát ngôn của tác giả. Thuật ngữ văn học này dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này là: Bình luận ngoại đề (hay “trữ tình ngoại để”).

Tác dụng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền:

   - Thể hiện quan điểm, tư tưởng của nhà văn: con người với trái tim yêu thương có thể đánh đổ được cái ác, sự cường quyền.

   - Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.

Câu 4 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa qua đoạn trích:

   - Cái chết bi thảm của Phăng-tin đầy thương tâm nhưng không gợi sự bi lụy.

   - Gương mặt sáng rỡ, nụ cười trên môi của Phăng-tin khi chết là lời khẳng định sức mạnh của tình thương yêu con người có thể đẩy lùi cường quyền và áp bức, nhen nhóm niềm tin vào tương lai.

   - Thế giới lãng mạn của Huy-gô được biểu hiện qua hình ảnh người anh hùng lãng mạn (Giăng Van-giăng) giải quyết những bất công xã hội bằng tình thương.

Luyện tập

Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Nghệ thuật miêu tả nhân vật Phăng-tin:

   - Nghệ thuật đối lập:

       + Phăng-tin (nạn nhân) > < Gia – ve (cường quyền).

       + Phăng-tin (nạn nhân) > < Giăng Van-giăng (Vị cứu tinh).

   - Nghệ thuật miêu tả tâm trạng: Phăng-tin từ tin tưởng tuyệt đối vào Giăng Van-giăng đến lo lắng, sợ hãi. Khi nghe những lời ghê tởm, hống hách của Gia-ve “Tao đã bảo không có ông Ma - đơ - len...” chị đã không chịu đựng nổi, chị hoảng hốt rồi mất đi.

→ Hình ảnh người phụ nữ đáng thương, tội nghiệp khi niềm tin về một chỗ dựa vượt qua cái ác bị đổ vỡ. Tuy nhiên, ngôn ngữ và hành động của Phăng-tin lại thể hiện một sức mạnh khác thường. Đó là nụ cười của Phăng-tin khi chết làm cho câu chuyện chứa chan tinh thần nhân đạo. Một cái kết có hậu cho người đàn bà khốn khổ.

Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Nhân vật Phăng-tin đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện. Nhân vật chính là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa thiện - ác. Qua đó làm cho tính cách nhân vật Gia-ve và Giăng Van-giăng hiện lên một cách nổi bật.

Câu 3 (trang 80 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Trong đoạn trích, cũng như trong toàn thể thiên truyện, việc phân tuyến nhân vật có nhiều nét giống văn học dân gian.

Đó là sự phân tuyến nhân vật theo kiểu thiện - ác, các nhân vật Giăng Van-giăng, Phăng-tin đối lập với Gia-ve. Việc sắp xếp tuyến nhân vật như vậy làm nổi bật tính cách các nhân vật cũng như ý nghĩa, chủ để của tác phẩm.

0
0
Tôi yêu Việt Nam
05/04/2018 17:08:14

Soạn bài: Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V.Huy-Gô)

Xem thêm: Tóm tắt: Người cầm quyền khôi phục uy quyền

Bố cục của tác phẩm Những người khốn khổ: 5 phần

- Phần 1: Phăng-tin ;        Phần 2: Cô-dét

- Phần 3: Mari-uýt ;         Phần 4: Tình ca phố

- Phần 5: Giăng Van-giăng

Đoạn trích: "Người cầm quyền khôi phục uy quyền" thuộc phần cuối của phần 1 có bố cục gồm 2 phần:

    + Phần 1 (từ đầu đến Phăng tin tắt thở): Gia-ve biết thân phận của ông thị trưởng Ma-đơ-len chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng đến bắt ông và gây nên cái chết của Phăng-tin

    + Phần 2 (còn lại): Giăng Van-giăng tìm lại uy quyền của mình

Nhan đề: thể hiện chủ đề tư tưởng của truyện, "người cầm quyền" ở đây chính là Giăng Van-giăng và đến cuối cùng chính anh đã "khôi phục uy quyền của mình".

Câu 1: Nghệ thuật đối lập hai nhân vật Giăng Văn-giăng và Gia-ve qua đối thoại, qua hành động.

Soạn bài: Người cầm quyền khôi phục uy quyền | Soạn văn 11 hay nhất tại

- Ý nghĩa của thủ pháp tương phản nhằm làm nổi bật sự đối lập giữa thiện-ác, tốt-xấu, yêu thương-tàn bạo. Từ những hình ảnh tương phản trên tác giả muốn gửi tới người đọc thông điệp. Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.

Câu 2:

Gia-ve tác giả đã sử dụng một loạt chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ: Hình tượng con ác thú Gia-ve.

- Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động của hắn như con ác thú đang chuẩn bị vồ mồi (Tiếng thét "Mau lên" nghe như tiếng "thú gầm"; "phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt"; hành động "túm lấy cổ áo..."; "hắn cười phá lên, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng"...)

- Hắn mang dã tâm của loài thú (quát tháo Phăng-tin khi cô đang bệnh nặng, nói những lời kích động mạnh khiến Phăn-tin đột tử).

Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy về ẩn dụ như Gia-ve. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng có thể quy chiếu về hình ảnh: Một con người chân chính - con người của tình yêu thương.

- Để cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van-giăng buộc phải tự thú.

- Khi Phăng-tin chết "trong nét mặt và dáng điệu ông cho thất một nỗi thương xót khôn tả".

- Lời thì thầm bên tai người đã chết là những lời hứa (về sau ông đã thực hiện được lời hứa đó).

Câu 3:

Đoạn văn từ câu "Ông nói gì với chị?" đến câu "có thể là những sự thực cao cả" là phát ngôn của nhà văn. Thuật ngữ văn học dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này là: Bình luận ngoại đề (hay "Trữ tình ngoại đề"). Khái niệm này được giải thích như sau:

"Trữ tình ngoại đề chỉ một trong những yếu tố ngoài cốt truyện trong tác phẩm tự sự, là những đoạn văn đoạn thơ mà tác giả hay người kể chuyện trực tiếp bộc lộ những tình cảm, ý nghĩ, quan niệm của mình đối với nhân vật, đối với cuộc sống thể hiện trọng tác phẩm ...

... Trữ tình ngoại đề góp phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, làm sáng tỏ thêm hình tượng nhân vật. Nếu xuất phát từ tư tưởng tiển bộ, từ những thể nghiệm sâu sắc về cuộc sống, những đoạn trữ tình ngoại đề có ý nghĩa giáo dục lớn đối với người đọc ...

Trong tác phẩm tự sự, tính cách thông qua cốt truyện thể hiện nội dung của tác phẩm. Quá lạm dụng trữ tình ngoại đề sẽ làm cho tác phẩm tản mạn. Những đoạn trữ tình ngoại đề sai lệch về tư tưởng, thiếu kinh nghiệm sống, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tác phẩm".

Câu 4: Những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa qua đoạn trích:

- Phăng-tin đã chết rồi mà khi nghe những lời thì thầm của Giăng Van-giăng trên đôi môi nhợt nhạt của chị hiện lên "nụ cười không sao tả được".

- Khi Giăng Van-giăng sửa sang thi thể Phăng-tin như "một người mẹ sửa sang cho con" thì "gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường".

Có thể đó chỉ là ảo tưởng do người khác (bà Xơ Xem-phích và tác giả) quá xúc động trước cử chỉ, hành động của Giăng Van-giăng. Bút pháp lãng mạn giúp nhà văn làm nổi bật vẻ đẹp trong tâm hồn đầy yêu thương của Giăng Van-giăng.

0
0
Trần Đan Phương
07/04/2018 11:23:01

Soạn bài: Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V.Huy-Gô)

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k