Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài những câu hát châm biếm

6 trả lời
Hỏi chi tiết
2.122
5
0
Trần Đan Phương
01/08/2017 02:34:45

Soạn bài những câu hát châm biếm
I. Đọc – hiểu văn bản
Câu 1.
- Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ôn chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.
- Chân dung của chú tôi
+ Là người nát rượu nghiện ngập - > hay tửu hay tăm
+ Là người thích hưởng thụ ăn chơi - > hay chè đặc, hay ngủ trưa
+ Là người lười biếng lao động - > ước ngày mưa, ước đêm thừa
= > Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm… - Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.
- Ý nghĩa hai dòng đầu.
+ Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.
+ Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.
Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy = > Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.
- Đối tượng châm biếm.
Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.
Câu 2.
- Lời người nói : Bài ca dao này nhại lời của người thầy bói nói với một cô gái (số cô chẳng giàu) đi xem bói.
- Nhận xét về lời thầy bói :
+ Mong muốn của người đi xem bói là muốn biết những gì sẽ đến với mình trong tương lai thế nhưng lời thầy bói ở đây toàn là những điều hiển nhiên, ai cũng thừa sức biết : có mẹ, có cha, mẹ đàn bà, cha đàn ông.
+ Hai nữa là toàn là những lời nói ngược như : chẳng giàu thì nghèo, chẳng gái thì trai…
- Ý nghĩa phê phán :
+ Phê phán những thầy bói chuyên lừa lọc người khác để kiếm tiền, trục lợi.
+ Cảnh tình những người mê tín dị đoan, thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin, mất tiền cho kẻ khác một cách vô ích.
- Những bài ca dao có nội dung tương tự :
’’Đom đóm đầy ngỡ là ma
Thầy bỏ thầy chạy
Rơi khăn rơi dãy
Rơi cả cục xôi
Thầy ngồi thầy réo
Ma bắt thầy đi’’
(Có thể đọc thêm ở trang 53 SGK)
Câu 3.
- Ý nghĩa tượng trưng của các con vật :
Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.
+ Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.
+ Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường - > đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.
+ Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như : cai lệ, lính lệ - kiếm chác chia phần.
+ Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.
- Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai :
+ Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.
+ Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.
+ Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.
- Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.
+ Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang - chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.
+ Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.
- Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.
Câu 4.
- Chân dung cậu cai.
+ Vẻ bên ngoài :
Cai tức là cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến ; cậu – cách gọi người còn trẻ và có ý mỉa mai.
Đầu đội nón dấu lông gà – dấu hiệu của con người có quyền hành.
Ngón tay đeo nhẫn – dấu hiệu chứng tỏ sự giàu sang thích khoe khoang, tính cách của người thiếu đứng đắn.
+ Thực chất bên trong :
Một người có quyền lực như cậu mà ba năm mới có một chuyến sai, ba năm mới được một lần ra oai – quá ít ỏi.
Giàu sang thế mà áo lẫn quần đền không có phải đi mượn đi thuê = > Như vậy ở hai câu sau tất cả cái giàu sang, cái oai vệ của cậu cai đã phơi bày thực chất hết sức thảm hại đáng thương. Cái vỏ bên ngoài của cậu là căn nguyên của sự sĩ diện, thích khoe khoang mà thôi.
- Nghệ thuật châm biếm :
+ Miêu tả có tính chất điểm xuyết.
+ Nghệ thuật phóng đại
Ba năm được một chuyến sai
Áo mượn, quần thuê.
II. Luyện tập
Câu 1. Nhận xét về sự giống nhau của 4 bài ca dao trong văn bản. Cả 4 ý kiến nêu dưới đây đều đúng :
Hướng dẫn :
- Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.
- Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.
- Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.
- Nghệ thuật tả thực có trong cả 4 bài.
Câu 2. Những câu hát châm biếm trên có đặc điểm gì giống với truyện cười dân gian.
- Giống về nội dung : Tập trung phê phán chế giễu các thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.
- Giống về mặt hình thức : Dùng phương pháp nói ngược hay cường điệu phóng đại.
= > Ca dao châm biếm và truyện cười dân gian có những nét gần gũi với nhau.



Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
0
Tôi yêu Việt Nam
05/08/2017 01:19:46
NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM I. VỀ THỂ LOẠI
(Xem bài Những câu hát về tình cảm gia đình).
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài 1 “giới thiệu” chú tôi là người hay (nghĩa là giỏi, nhưng cũng có nghĩa là thích, ham, nghiện) nhiều thứ: nghiện rượu, nghiện chè, lại nghiện cả... ngủ trưa! Không những thế, chú còn là người rất "giàu ước mơ" - mà toàn mơ để ... không phải đi làm, để ngủ cho đã mắt! Bài ca dao này châm biếm hạng người sa đà nghiện ngập và lười biếng trong xã hội.
2. Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn "nói dựa" - thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.
3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho một loại người: con cò tượng trưng cho người nông dân, cà cuống tượng trưng cho những kẻ có quyền bính, chim richào mào tượng trưng cho đám lính lệ, chim chích tượng trưng cho anh mõ dưới chế độ phong kiến. Bài ca có tính chất ngụ ngôn rõ rệt, tác giả dân gian đã mượn loài vật để phê phán hủ tục ma chay.
4. Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai "dấu hiệu" nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng "cậu cai" đi, trong hình dung chỉ còn chiếc "nón dấu lông gà" (quyền lực) và "ngón tay đeo nhẫn" (khoe của) có vẻ rất trai lơ!
Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.
Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Cách đọc
Đây cũng là ca dao trữ tình nhưng tình cảm, thái độ trong đó không phải là những tình cảm thẳm sâu, day dứt trong tâm hồn (như những bài ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa,...). Giọng điệu ở đây là giọng châm biếm, giễu cợt,... nên khi đọc cần cao giọng, nhấn mạnh vào các điệp từ, điệp ngữ (có chủ ý) để làm nổi bật giọng điệu châm biếm, giễu cợt của những câu ca dao này.
2. Để nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca dao, em đồng ý với ý kiến nào dưới đây:
a) Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.
b) Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.
c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.
d) Nghệ thuật tả thực có trong cả bốn bài.
Gợi ý: Câu trả lời xác đáng nhất là ý c.
3.* Những câu hát châm biếm nói trên có điểm gì giống truyện cười dân gian?
Gợi ý:
- Đều hướng đến châm biếm những hạng người đáng chê cười về tính cách, bản chất.
- Đều sử dụng một số hình thức gây cười.
- Đều tạo được những tiếng cười sảng khoái cho độc giả.
1
0
NoName.81816
22/09/2017 21:54:22
Cho hỏi câu:Tại sao trong bài ca dao số 1 trong những câu hát châm biếm,hai câu đầu lại có ý nghĩa như 1 câu hỏi?
1
0
Phạm Văn Bắc
05/04/2018 17:08:06

Soạn bài: Những câu hát châm biếm

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 52 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - Hình ảnh “chú tôi” ở bài 1 : nghiện rượu, nghiện chè, nghiện ngủ, lười biếng.

   - Ý nghĩa hai dòng đầu : Thể hiện một hình ảnh đối lập với nhân vật “chú tôi” được giới thiệu sau đó : một cô gái đẹp (cô yếm đào), hay lam hay làm.

   - Bài châm biếm hạng người ham chơi lười làm.

Câu 2 (trang 52 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - Bài 2 nhại lời của thầy tướng số nói với cô gái đi xem bói.

   - Lời của thầy bói hoàn toàn là những điều hiển nhiên mà ai cũng biết.

   - Đối tượng phê phán : những kẻ hành nghề mê tín dị đoan lừa lọc người khác để kiếm tiền, cũng phê phán những người ít hiểu biết, nhẹ dạ cả tin, tin vào những điều phản khoa học.

   - Một số bài ca dao tương tự :

   +     Nhà bà có con chó đen

   Người lạ nó cắn, người quen nó mừng

   +     Số cậu là số đào hoa

   Vợ cậu con gái, đàn bà mà thôi

Câu 3 (trang 52 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - Ý nghĩa tượng trưng của các con vật :

       + con cò : người có thân phận nhỏ bé – nông dân.

       + Cà cuống : những kẻ có vai vế, địa vị - lí trưởng, xã trưởng.

       + Chim ri : kẻ có kiếm chác chia phần – cai lệ, lính.

       + chào mào : người phục vụ tang lễ (kèn, trống).

       + chim chích : mõ làng rao tin.

   - Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” khiến cho cảnh tượng trở nên sinh động, lí thú, mọi hành động, đối tượng chỉ thấp thoáng chứ không cụ thể. Việc châm biếm trở nên kín đáo.

   - Bài phê phán hủ tục ma chay chọn ngày, ăn uống, chia phần ồn ào ở xã hội cũ.

Câu 4 (trang 52 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   - Chân dung “cậu cai” : tưởng là quyền lực (“nón dấu lông gà”), tưởng là giàu có (“ngón tay đeo nhẫn”), nhưng thực chất ba năm mới được sai làm việc một lần, mà quần áo còn phải đi mượn đi thuê. Vậy có lẽ chiếc nhẫn kia cũng chỉ là đồ mượn.

   - Nghệ thuật châm biếm : xưng hô “cậu cai” (nịnh bợ, châm biếm), sự phóng đại và đối lập tạo nên hình ảnh châm biếm sâu sắc.

Luyện tập

Câu 1 (trang 53 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1): Chọn ý c.

Câu 2* (trang 53 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

   Điểm giống với truyện cười dân gian : châm biếm, phê phán những thói hư tật xâu đáng cười đáng chê trong xã hội.

0
0
Trần Bảo Ngọc
05/04/2018 17:08:08

Soạn bài: Những câu hát châm biếm

Câu 1:

Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ông chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.

- Chân dung của chú tôi:

    + Là người nát rượu nghiện ngập ("hay tửu hay tăm")

    + Là người thích hưởng thụ ăn chơi ("hay chè đặc, hay ngủ trưa")

    + Là người lười biếng lao động ("ước ngày mưa, ước đêm thừa")

=> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm…

- Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.

- Ý nghĩa hai dòng đầu:

    + Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.

    + Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.

Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy => Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.

- Đối tượng châm biếm. Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.

Câu 2:

Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn "nói dựa" - thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.

Câu 3:

- Ý nghĩa tượng trưng của các con vật: Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.

    + Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.

    + Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường

-> đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.

    + Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như: cai lệ, lính lệ - kiếm chác chia phần.

    + Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.

- Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai:

    + Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.

    + Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.

    + Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.

- Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.

    + Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang - chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.

    + Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.

- Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.

Câu 4:

Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai "dấu hiệu" nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng "cậu cai" đi, trong hình dung chỉ còn chiếc "nón dấu lông gà" (quyền lực) và "ngón tay đeo nhẫn" (khoe của) có vẻ rất trai lơ!

Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.

0
0
Tôi yêu Việt Nam
07/04/2018 11:13:39

Soạn bài: Những câu hát châm biếm

Câu 1:

Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ông chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.

- Chân dung của chú tôi:

    + Là người nát rượu nghiện ngập ("hay tửu hay tăm")

    + Là người thích hưởng thụ ăn chơi ("hay chè đặc, hay ngủ trưa")

    + Là người lười biếng lao động ("ước ngày mưa, ước đêm thừa")

=> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm…

- Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.

- Ý nghĩa hai dòng đầu:

    + Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.

    + Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.

Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy => Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.

- Đối tượng châm biếm. Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.

Câu 2:

Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn "nói dựa" - thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.

Câu 3:

- Ý nghĩa tượng trưng của các con vật: Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.

    + Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.

    + Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường

-> đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.

    + Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như: cai lệ, lính lệ - kiếm chác chia phần.

    + Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.

- Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai:

    + Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.

    + Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.

    + Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.

- Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.

    + Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang - chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.

    + Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.

- Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.

Câu 4:

Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai "dấu hiệu" nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng "cậu cai" đi, trong hình dung chỉ còn chiếc "nón dấu lông gà" (quyền lực) và "ngón tay đeo nhẫn" (khoe của) có vẻ rất trai lơ!

Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo