Bao giờ núi Ấn hết tranh
Sông Trà hết nước anh đành xa em
Ngó lên Thiên Ấn nhiều tranh
Liều mình lén mẹ theo anh phen này
Sớm mơi xuống Quán Cơm em thấy hòn núi Hó
Chiều qua Đồng Có em thấy hòn núi Tròn
Về nhà than với chồng con
Ra đi gan nát dạ mòn vì đâu
Ai về núi Ấn sông Trà
Có thương cô bậu ghé nhà mà thăm
Sông Trà sát núi Long Đầu
Nước kia chảy mãi rồng chầu ngày xưa
Núi Long Đầu lưu danh hậu thế
Chùa Thiên Ấn ấn để hậu hoàng
Ai về xứ Quảng cho nàng về theo
Ai về núi Bút, Quán Đàng
Núi bao nhiều đá dạ thương chàng bấy nhiêu
Ba La, Vạn Tượng, Cầu Mông
Chạy quanh chạy quéo cũng về đồng Ba La
Ai về Cỗ Lũy cô thôn
Nước sông Trà Khúc sóng dồn lăn tăn
Ai về quê ấy Nghĩa An
Ghé thăm phong cảnh Chùa Hang, Bàn Cờ
Tư Nghĩa, Cửa Đại là đây
Gành Hàu, núi Quế đá xây nên chùa
Dưới thời bông súng nở đua
Ngó lên trên chùa đá dựng kiểng giăng
Ngó qua bên xóm Trường An
Ngó xuống hòn Sụp cát vàng soi gương
Sơn Tịnh có núi Chân Trâu
Có bàu ông Xá, có cầu Rừng Xanh
Bao giờ rừng Thủ hết gai
Sông Trà hết nước mới sai lời nguyền
Tai nghe anh lấy vợ Ba La
Ruột đau từng chặng, nước mắt ra từng luồng
Ba La đất tốt trồng hành
Đã xinh con gái lại lành con trai
Vạn Tượng những chông, những gai
Con gái mốc thích con trai đen sì
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Ân Phú với anh thì về
Ân Phú có ruộng tứ bề
Có sông tắm mát, có nghề mạch nha
Hỏi thăm qua chú bán quynh
Thấy ngoài Bến Ván, Trì Bình gặt chưa?
Bến Ván bán tới Quán Cơm
Gặt chưa không biết, thấy hai cây rơm ú ù
Cò bắt lươn cò trườn xuống cỏ
Lươn bắt cò cò bỏ cò bay
Từ ngày xa bạn đến nay
Đêm đêm tưởng nhớ, ngày ngày trông luôn
Kể từ Cầu Ván, Ao Vuông
Bước qua Quán Ốc lòng buồn lụy sa
Quán Cơm nào quán nào nhà
Ngóng ra Trà Khúc trời đà rạng đông
Buồn lòng đứng dựa ngồi trông
Ngó vô Hàng Rượu mà không thấy chàng
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu
Phải đâu chàng nói mà xiêu
Tại con cá bống tại niêu nước chè
Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Mộ Đức
Mứt gừng Đức Phổ
Bánh nổ Nghĩa Hành
Đậu xanh Sơn Tịnh
Cô gái lòng son
Không bằng tô don Vạn Tượng
Nghèo thì nghèo, nợ thì nợ
Cũng cưới cho được con vợ bán don
Mai sau nó chết cũng còn cặp ui
Sơn Tịnh đường đinh
Sa Huỳnh muối trắng
Bậu về nhớ ghé Ba La
Mua cân đường phổi cho ta với mình
Muối Xuân An, mắm Tịnh Kỳ
Khoai lang dưới Trảng, gạo thì Đường Trung
Ai về Cỗ Lũy, Xóm Câu
Nhớ mua đôi chiếu đón dâu về làng
Gái Thanh Khiết giỏi nghề cải giá
Trai Sung Tích chuyên dạ kén dâu
Bao giờ Thiên Mã sang sông
Thì làng Mỹ Lại mới không công hầu
Mía ngọt tận đọt
Heo béo tận lông
Cổ thời mang sông
Tay cầm lóng mía
Vừa đi vừa hít
Cái *** sưng vù
Sông Trà Khúc ai mà tát cạn
Rừng Trà Bồng ai đẵn hết cây
Anh mà đi với thằng Tây
Em đành phải dứt hết dây nghĩa tình
Ai về Sơn Tịnh quê ta
Đừng quên chiến thắng Ba Gia lẫy lừng
Tiếng đồn du kích Tịnh Khê
Lính đi mất xác, quan về mất lon
Ai về Cổ Lũy Cô Thôn
Quê ta Quảng Ngãi mồ chôn quân thù
Chèo ghe xuống Trạm múc dầu
Hỏi thăm chú lái nhức đầu khá chưa
Chưa khá tui bẻ nồi lá cho xông
Mồ hôi tui quạt, ngọn gió lồng tui che
Con mèo trèo lên tấm vách
Con chó dưới ngạch ấm ách chó tru
Thương anh kẻ oán người thù
Lên chùa Thiên Ấn mà tu cho rồi
Chẻ tre bện sáo ngăn sông
Đến khi đó vợ đây chồng mới hay
Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn sông Trà Khúc đợi ngày gặp em
Qua chùa núi Hó thắp bó nhang vàng
Xin cho bạn cũ lại hoàn như xưa
Trông trời chẳng thấy trời mưa
Rồng đi lấy nước rồng chưa kịp về
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê
Lên non tìm quế, quế về rừng xanh
Trách ai treo ngọn thắt ngành
Cho chàng xa thiếp cho anh xa nàng
Nhà em có bụi mía mưng
Có con chó dữ, anh đừng lại qua
Qua lại chi cho nàng mang tiếng
Rước khách qua đường sớm viếng chiều thăm
Mía sâu có đốt
Nhà dột có nơi
Tui thấy vui tui mới đến chơi
Ai ve các chị mà làm hơi quá chừng
Lên non tìm quế, ra Huế tìm chồng
Đến đây tìm bạn ruột bầm như dưa
Làm vầy đã thắm tình chưa
Một mình em đứng giữa mưa em chờ
Ba năm quế gãy còn cành
Bình hương tan nát, miếng sành còn thơm
Nhà bà có ngọn mía mưng
Có cô gái út mà ưng ông già
Trồng trầu tưới nước cho vông
Cảm thương cây quế đứng trông một mình
Em nguyền cùng anh một miếng tóc mai
Trước chùa Quan Thánh, nghe lời ai anh bỏ nàng
Thương tằm cởi áo bọc dâu
1.- Ðất Quảng Nam, chưa mưa đà thấm,
Rươụ hồng đào chưa nhấm đà say
, Ðối vớI ai ơn trọng, nghĩa dày ,
Một hột cơm cũng nhớ ,
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên ..
Câu nầy diễn tả rõ tánh tình người dân đất Quảng,bộc trực , bén nhạy, nhớ ơn,trọng nghĩa đối vơí các ân nhân của mình.
2.- Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế, bỏ đi không đành
Câu nầy nói lên tinh thần trọng mỹ thuật, về kinh đô đi thi, nhưng thấy các cô gái Huế thướt tha yểu điệu,đều đứng ngắm , không muốn rời bước.
3.- Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn .
Gái Quảng Nam lấy chồng ra Ðà nẵng, chiều ngó lên Ðèo Hải Vân thấy mây phủ trên Ðèo ,lại nghe chim kêu trên gành đá , cảm thấy buồn thêm.
4.- Ngó lên Hòn Kẽm, Ðá Dừng
Thương cha, nhớ mẹ, quá chừng bạn ơi,
Chiêù chiều, ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều,
Hòn Kẽm ,Ðá Dừng là 2 trái núi đâù nguồn sông Thu Bồn ,ở giữa 2 huyện Quế Sơn và Ðại lộc,làm cho những cô gái lấy chồng xa nhà , mỗi khi ngó lên rất nhớ nhà.
5.- Ai đi cách trở sơn khê,
Nhớ tô mì Quảng,tình quê mặn nồng .
Mì Quảng là món ăn chủ lực, bình dân của đất Quảng,nên đi đâu ở đâu , mà dân Quảng ăn được tô mì Quảng thì khoái khẩu, mặn mà nhất.
6.- Hội An đất hẹp, người đông ,
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu .
Phố Hội an nhỏ hẹp ,nhưng ai đã ở Hội An một thời gian rồi ,khi rời Hội an không làm sao quên được tình cảm nồng hậu của cư dân ở đây.
7.- Hội An bán gấm, bán điêù
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành .
Hội An, là thương cảng nên buôn bán hàng hoá sang đẹp , còn Kim Bồng,Trà Nhiêu là vùng ngoaị ô , chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An.
8.- Ai đi phố Hội , Chùa Cầu.,
Ðể thương, để nhớ, để sầu cho ai,
Ðể sầu cho khách vãng lai,
Ðể thương, để nhớ cho ai chịu sầu.
Những người dân Hội an ,vì sinh kế phải đi làm ăn xa, tuy nhiên vẫn thương và nhớ phố Hội.
9.- Ðưa tay hốt nhắm dăm bào,
Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công,
Không mai thì mốt, hồi công,
Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân
Kim Bồng là một xã bên kia sông, đôí diện với Hội.An,sản xuất nhiều nghệ nhân đồ mộc,hằng ngày qua phố Hôị làm việc, nên những cô gái đến hốt dăm bào về nấu bếp,bèn hát những câu trữ tình để ghẹo chú thợ mộc.
10.- Năm hòn nằm đó không sai,
Hòn Khô, Hòn Dài, lố nhố thêm vui,
Ngó về Cửa Ðại, than ôi,
Hòn Nồm nằm dưới mồ côi một mình.
Cù Lao Chàm, nằm ngoài khơi tỉnh,gồm năm hòn đảo, hòn Nồm là đảo nằm riêng một mình ,không chen vơí các hòn đảo khác .
11.- Sáng trăng, trải chiếu hai hàng,
Cho anh đọc sách, cho nàng quay tơ
. Quay tơ vẫn giữ mối tơ,
Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh .
Cảnh sinh hoạt ở thôn quê, dưới ánh trăng, chàng đọc sách, nàng quay tơ, chàng nhắn với nàng giữ tình chung thủy chờ chàng.
L2.- Ai về nhắn với ngọn nguồn,
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên.
Người miền biển có cá chuồn làm mắm , nguời miền núi có mít non gởi xuống để trao đổi lương thực giữa 2 miền,trong muà mưa gió .
L3.- Lụt nguồn trôi trái lòn bon ,
Cha thác, mẹ còn ,con chịu mồ côi .
Mồ côi ba thứ mồ côi.
Mồ côi có kẽ trâu đôi, nhà rường
Lòn bon là môt loại trái cây,ngọt, sản xuất tại vùng núi huyện Ðại lộc, muà mưa lụt, nước lụt kéo trôi trái lón bon, mồ côi cha không quan trọng bằng mồ côi mẹ, vì bà mẹ biết lo cho gia đình, tuy mồ côi cha,nhưng nhờ mẹ mà nhà có trâu và nhà gỗ.
14.- Trà My sông núi đượm tình,
Nơi đây là chỗ Thượng Kinh chan hoà.
Trà My là một huyện miền Thượng tỉnh Quảng Nam,có cả Thượng Kinh chung sống.
15.- Quế Trà My thứ cay, thứ ngọt ,
Nhờ tay thợ rừng mới lọt tay anh,
Phân du, bạch chỉ rành rành ,
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân.
Trà My là huyện chuyên sản xuất quế rừng, được các tay thợ rừng lột vỏ, cắt đoạn, và sắp xếp theo các hạng để định giá xuất khẩu.
16.- Gập ghềnh Giảm thọ , Ðèo Le .
Cu ngói cõng mè, cà cưỡng cõng khoai.
Dốc Giảm thọ và Ðèo Le là 2 cao độ đi lên huyện lỵ Quế Sơn, trèo qua 2 đèo nầy thì chắc giảm thọ và mệt le lươĩ.
17.-Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông.
Thấy nước xanh như tàu lá,
Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn ,
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn ,
Ðào sông Câu Nhí, tìm vàng Bông Miêu ,
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu,
Ở nuôi Thầy, Mẹ, sớm chiều cũng có Anh .
Hàn tức là tên cũ cuả Ðà nẵng, Hà Thân là xã ở bên kia sông, Tây tức là người Pháp, sông Câu Nhí là sông do người Pháp lúc mới cai trị Ðànẵng cho đào chạy qua cầu Cẩm Lệ, chàng dặn dò người yêu cố gắng ở với cha mẹ,chờ chàng về.
18.- Kể từ đồn Nhứt kể vô,
Liên Chiêủ, Thuỹ Tú, Nam Ô , xuống Hàn,
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang .
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra.
Ngó lên chợ Tổng bao xa,
Bước qua Phú Thượng, Ðai la, Cồn Dầøu
Cẩm Sa, Chơ Vãi, Câu Lâu.
Ngó lên đường cái, thấy cầu Giáp Năm.
Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm ,
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ .
Ðồn Nhứt là đồn gác số 1 đóng trên đèo Hải Vân và từ đó kể vào toàn là những địa danh cho đến huyện Ðiện Bàn.
19.- Kể cầu Ông Bộ kể ra,
Cây Trâm ,Trà Lý, bước qua Bàu Bàu,
Tam kỳ, Chợ Vạn bao lâu,
Ngó qua đường cái, thấy lầu Ông Tây,
Chiên Ðàn , Chợ Mới là đây,
Kế Xuyên mua bán, đông, tây rộn ràng
Hà Lam gần sát Phủ Ðàng,
Phiá ngoài bãi cát , Hương An nằm dài ,
Cầu cho gái sắc, trai tài .
Ðồng tâm xây dựng, tương lai huy hòang
Các địa danh trên đây, kể từ trong kể ra, Lầu ông Tây tức là nhà lầu của Viên Ðại lý Hành Chánh Pháp đóng ở Tam Kỳ, còn Chợ Mới, Chợ Vạn, Kế Xuyên, Chiên Ðàn là những tụ điểm thương mãi quanh Tam kỳ.
20.- Thương nhau chớ quá e dè,
Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be .
Thiếp nói thì chàng phải nghe,
Thức khuya, dậy sớm, làm che l ngày 12 xu,
Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo ,
Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình,
Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau,
Lạy trời, mưa xuống cho mau.
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng .