Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969. Đặc biệt, HCM là người có công lớn đối với việc thành lập ĐCS VN
Vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, giỏi Nho học, nên ngay từ nhỏ Nguyễn Tất Thành đã có ý chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào. Thất bại của phong trào chống thuế ở Huế (1908) và các phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX, đã giúp cho Nguyễn Tất Thành hiểu được bản chất dã man và sức mạnh của bộ máy chính quyền thực dân. Mặc dù rất khâm phục những hoạt động cứu nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành đã tự chọn con đường cứu nước riêng của mình, bằng cách đi ra nước ngoài, đến với các nước phương Tây, xem sự thật đằng sau tư tưởng Tự do, Bình đẳng và Bác ái là gì, tìm học con đường đấu tranh thích hợp để sau này trở về giúp đồng bào mình tự giải phóng.
Từ năm 1911 đến năm 1917, chỉ với túi hành trang là lòng yêu nước sâu sắc, nghị lực phi thường và đôi bàn tay cần cù lao động vốn có của người dân Việt Nam đã giúp Nguyễn Tất Thành vượt lên trên tất cả những khó khăn, gian khổ để bôn ba tìm hiểu nhiều nơi trên thế giới. Cuộc hành trình dài sáu năm này đã giúp Người nhận thức rõ về cuộc sống của thế giới bên ngoài, phân biệt được đâu là bạn, đâu là kẻ thù.
Cuối năm 1917, từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành trở về nước Pháp. Tại đây, Người đã hoà mình cùng nhân dân lao động và tích cực tham gia các hoạt động chính trị.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa và theo đuổi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đến tháng 6 cùng năm, Nguyễn Ái Quốc(tên mới của Nguyễn Tất Thành) thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước gửi Bản yêu sách tám điểm đến Hội nghị Vécxây, đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Vì Hội nghị Vécxây được tổ chức là nhằm để các nước đế quốc chia nhau quyền lợi sau Chiến tranh thế giới thứ nhất nên những yêu cầu của Bản yêu sách đã không được quan tâm đến. Tuy nhiên, sự kiện này đã giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất thật của chủ nghĩa đế quốc, đó là, những lời hứa của các nước đế quốc về việc trao quyền tự quyết cho các dân tộc thuộc địa chỉ là trò lừa bịp, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì tự chúng ta phải đứng lên giành lấy.
Những thông tin về thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (tháng 11/1917) và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (tháng 3/1919), đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường hoạt động cách mạng. Ngày 16 và 17/7/1920, báo L'Humanité (Nhân đạo) đăng bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Đọc bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ về con đường đấu tranh giải phóng cho dân tộc mình. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Những hành động này đã đánh dấu một mốc son quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chân lý về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà suốt gần mười năm qua Người bôn ba tìm kiếm đến nay đã được tìm thấy.
Như vậy, bằng sự kiện Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, đó là con đường cách mạng vô sản, đã giúp cách mạng Việt Nam chấm dứt thời kỳ dài bị khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Đồng thời, Người tham gia viết bài cho các tờ báo, nhằm tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và tìm cách bí mật truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước; từng bước chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để cho ra đời một chính đảng, kịp thời dẫn dắt phong trào cách mạng trong nước.
Để giúp các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam hiểu rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa thực dân, giác ngộ con đường đấu tranh cách mạng và đoàn kết lại với nhau, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa (tháng 10/1920) và sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Có thể nói, đây là tổ chức đầu tiên trên thế giới kêu gọi các dân tộc thuộc địa đoàn kết lại để cùng đấu tranh chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô, hoạt động cho Quốc tế Cộng sản, cụ thể là ở Ban Phương Đông và Quốc tế Nông dân. Tại đây, Người có điều kiện trực tiếp nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin một cách có hệ thống, đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga, cách thức tổ chức và hoạt động của các Đảng Cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản Liên Xô…
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc). Đến Trung Quốc, quốc gia giáp biên với Việt Nam là mong muốn thiết tha từ lâu của Người. Tại đây, Người có điều kiện thuận lợi hơn để liên lạc với cách mạng Việt Nam, đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước và chuẩn bị cho ra đời một chính đảng.
Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở châu Á. Đây là tổ chức đoàn kết các dân tộc thuộc địa ở châu Á để cùng nhau đứng lên đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập dân tộc.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây được xem là tổ chức tiền thân của Đảng, có tính chất quá độ, phù hợp với trình độ phát triển của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Qua tổ chức này, những người Việt Nam yêu nước, dù xuất thân từ thành phần nào cũng rất dễ dàng hiểu và tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đi đôi với công tác phát triển tổ chức, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng và chính trị để thành lập một chính đảng ở Việt Nam sau này. Cụ thể, Người trực tiếp mở và phụ trách Trường huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, gieo những hạt giống cộng sản đầu tiên cho cách mạng Việt Nam.
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cho xuất bản tờ báo Thanh Niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Mục đích để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, giác ngộ quần chúng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng vô sản, đẩy lùi những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa tư bản và tiểu tư sản đang tồn tại ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ đã được in thành tác phẩm Đường kách mệnh. Những tư tưởng cốt lõi của tác phẩm này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp cũng do Người viết, được xuất bản ở Paris vào năm 1925 trước đó. Tác phẩm Đường kách mệnh đã chỉ ra rất rõ con đường giải phóng dân tộc, phương pháp đấu tranh cách mạng, xứng đáng là ngọn cờ chỉ đạo cách mạng Việt Nam trong những ngày đầu chuẩn bị thành lập Đảng.
Trong khoảng thời gian này, ở Việt Nam, phong trào yêu nước của nhân dân phát triển rất mạnh. Mở đầu là các cuộc bãi công của công nhân, phong trào đòi thả tự do cho cụ Phan Bội Châu (1925), phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh (đầu năm 1926). Thông qua những hoạt động này là dịp rất tốt để Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên truyền bá sâu rộng hơn chủ nghĩa Mác-Lênin vào giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tháng 9/1928, kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kỳ đưa ra chủ trương "Vô sản hoá", nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để đẩy mạnh việc truyền bá và kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với các phong trào đấu tranh của công nhân.
Như vậy, đến cuối những năm 1920, phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam đã phát triển lên đến đỉnh cao, bao gồm cả chất và lượng. Trước sự phát triển đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không còn đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng. Tình hình cách mạng lúc này đòi hỏi bức thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản để tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến lên.
Với không khí dâng lên cao mạnh mẽ của phong trào đấu tranh cách mạng, chỉ trong vòng 7 tháng (từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930), cả nước lần lượt đã ra đời ba tổ chức cộng sản. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 1/1930). Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản cùng hoạt động với mục tiêu thống nhất chung đã chứng tỏ rằng cách mạng Việt Nam đang phát triển lên đến đỉnh cao, phản ánh kết quả thành công của quá trình dài chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong một nước cùng lúc xuất hiện tới ba tổ chức chức cộng sản, cùng một mục tiêu hoạt động, nhưng lại không đoàn kết, thống nhất với nhau, điều đó đã làm ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp chung của cách mạng cả nước. Vì vậy, lúc này, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Trước tình hình cấp bách đó, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm (Thái Lan) trở lại Hương Cảng (Hồng Kông) triệu tập ngay hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất các tổ chức đó lại và thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất.
Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, tại Hương Cảng, sau một thời gian ngắn gấp rút chuẩn bị, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một tổ chức duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tất cả các tài liệu này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Nội dung Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ đường lối chiến lược và sách lược phù hợp với tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam, đó là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kết thúc thời kỳ dài mười năm chuẩn bị công phu, khoa học về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đủ khả năng lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn liền với vai trò vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, thể hiện rõ ở các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời, hướng cách mạng Việt Nam đi theo con đường đó và giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi bế tắc đường lối cứu nước. Người đầu tiên gắn chặt ngọn cờ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, bằng phương pháp cách mạng đầy tính khoa học, sáng tạo và tinh thần cống hiến quên mình, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra hệ thống giao thông liên lạc bí mật, rất chặt chẽ, đa chiều từ nước ngoài về Việt Nam và ngược lại. Kết quả là Người đã truyền bá thành công chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, đánh lùi các tư tưởng cứu nước sai trái. Tuyển chọn và đào tạo nên đội ngũ cán bộ cộng sản đầu tiên cho cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, bằng uy tín và sự chuẩn bị chu đáo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất thành công các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Tạo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức trong phong trào đấu tranh cách mạng. Đây là những điều kiện thiết yếu để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành công.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng nghĩa với việc Nguyễn Ái Quốc đã phá tan sự đơn độc tồn tại lâu đời, thiết lập nên sự đoàn kết, thống nhất hành động giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước Đông Dương. Đặc biệt là đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăn khít của cách mạng thế giới.