Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết một đoạn văn giới thiệu về một tác giả mà em yêu thích

8 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
13.496
15
3
Lê Thị Thảo Nguyên
22/05/2019 08:25:50
Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Hải Phòng. Nguyên Hồng mồ côi cha từ nhỏ, ông theo mẹ ra thành phố cảng hải Phòng kiếm sống trong những xóm chợ nghèo. Ông từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí "Những ngày thơ ấu" được coi là dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của ông. Nguyên Hồng chuyên viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kí. Các tác phẩm chính của ông gồm có: "Những ngày thơ ấu"(hồi kí, 1938); "Bỉ vỏ"(tiểu thuyết,1938); "Trời xanh"(tập thơ, 1960)...Trong các tác phẩm của Nguyên Hồng hình ảnh người phụ nữ và trẻ em thường được ông ưu ái dành cho niềm yêu thương vô hạn. Có phải bởi lẽ ông có một lòng đồng cảm sâu sắc với họ, hay phải chăng ông căm ghét những cổ tục đã đày đọa người phụ nữ và thương xót cho những đứa trẻ có hoàn cảnh đáng thương giống như tuổi thơ của chính ông? Nhà văn Nguyên Hồng đã có rất nhiều cống hiến và đóng góp cho nền văn học nước nhà, ông được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật năm 1996

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
12
9
Phương Như
22/05/2019 08:25:53
viết một đoạn văn giới thiệu về một tác giả mà em yêu thích
=> Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Hải Phòng. Nguyên Hồng mồ côi cha từ nhỏ, ông theo mẹ ra thành phố cảng hải Phòng kiếm sống trong những xóm chợ nghèo. Ông từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí "Những ngày thơ ấu" được coi là dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của ông. Nguyên Hồng chuyên viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kí. Các tác phẩm chính của ông gồm có: "Những ngày thơ ấu"(hồi kí, 1938); "Bỉ vỏ"(tiểu thuyết,1938); "Trời xanh"(tập thơ, 1960)...Trong các tác phẩm của Nguyên Hồng hình ảnh người phụ nữ và trẻ em thường được ông ưu ái dành cho niềm yêu thương vô hạn. Có phải bởi lẽ ông có một lòng đồng cảm sâu sắc với họ, hay phải chăng ông căm ghét những cổ tục đã đày đọa người phụ nữ và thương xót cho những đứa trẻ có hoàn cảnh đáng thương giống như tuổi thơ của chính ông? Nhà văn Nguyên Hồng đã có rất nhiều cống hiến và đóng góp cho nền văn học nước nhà, ông được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật năm 1996
7
5
Li Syaoran
22/05/2019 08:42:08
Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Hải Phòng. Nguyên Hồng mồ côi cha từ nhỏ, ông theo mẹ ra thành phố cảng hải Phòng kiếm sống trong những xóm chợ nghèo. Ông từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí "Những ngày thơ ấu" được coi là dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của ông. Nguyên Hồng chuyên viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kí. Các tác phẩm chính của ông gồm có: "Những ngày thơ ấu"(hồi kí, 1938); "Bỉ vỏ"(tiểu thuyết,1938); "Trời xanh"(tập thơ, 1960)...Trong các tác phẩm của Nguyên Hồng hình ảnh người phụ nữ và trẻ em thường được ông ưu ái dành cho niềm yêu thương vô hạn. Có phải bởi lẽ ông có một lòng đồng cảm sâu sắc với họ, hay phải chăng ông căm ghét những cổ tục đã đày đọa người phụ nữ và thương xót cho những đứa trẻ có hoàn cảnh đáng thương giống như tuổi thơ của chính ông? Nhà văn Nguyên Hồng đã có rất nhiều cống hiến và đóng góp cho nền văn học nước nhà, ông được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật năm 1996
8
11
SayHaiiamNea ((:
22/05/2019 09:45:46
*Nguyễn Du:
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.
Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.
Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.
Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày... những con người “dưới đáy” xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du - nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.
Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn, hành lạc...) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.
Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón.
Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Chính “những điều trông thấy" khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.
Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử... đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm...). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu - nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca... Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lấm cả áo người” toàn bọ "vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”... Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bôi cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.
Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh... thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta - địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quý môn quan”.
Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.
Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.
Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán - Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.
Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.
4
8
(•‿•)
22/05/2019 11:02:05
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Li bị bắt, Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt. Nguyễn Trãi định đi theo cha để tỏ lòng trung nước, hiếu phụ nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con trở về tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Sau đó, Nguyễn Trãi tìm đường giúp Lê Lợi khởi nghĩa. Năm 1427, cuộc chiến đấu chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết “Bình ngô đại cáo”. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Trãi giữ trọng trách quan trọng của đất nước. Cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với những biến động của lịch sử dân tộc. Ông là bậc đại anh hùng dân tộc, là nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi vừa là nhà chính trị, quân sự, vừa là nhà ngoại giao, vừa là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Năm 1962, nước ta đã tổ chức 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi. Năm 1980, Việt Nam cùng hiệp hội UNESCO kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông. Nguyễn Trãi là người Việt Nam đầu tiên được ghi vào danh sách những danh nhân thế giới.
13
4
Quỳnh Anh Đỗ
22/05/2019 11:21:57
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 17 - 9 - 1920 ở quê ngoại, tức làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ ; nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Còn quê nội của ông ở làng Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Có thể gọi Tô Hoài là nhà văn của Hà Nội, vì ông sinh ra, lớn lên và gắn bó suốt cuộc đời mình với đất Thủ đô ngàn năm văn vật. Hình ảnh quê ngoại đã in sâu trong tâm khảm nhà văn, cung cấp tư liệu cho ông viết nên rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Vốn có năng khiếu văn chương từ nhỏ nên Tô Hoài sáng tác từ khi mới hết tuổi thiếu niên. Nhà nghèo, không được học hành đến nơi đến chốn, Tô Hoài tự bù lại bằng cách lăn lộn học ở trường đời. Ông làm nhiều việc để kiếm sống như thợ thủ công dệt lụa, dạy học tư, kế toán tiệm buôn...Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài ít có tác giả nào sánh kịp. Vốn sống phong phú, trình độ hiểu biết sâu rộng, khả năng thiên phú và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, dẻo dai... đã tạo nên một tên tuổi được đông đảo bạn đọc yêu mến và kính trọng.
5
8
»Ҫɦέɱ¹sէ«
22/05/2019 17:25:22

Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Nguyễn Trãi tên hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380, quê gốc ở xã Chi Ngại (Nay là xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) sau dời đến làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh đỗ Thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sống trong một thời đại đầy biến động: nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly lập nghiệp chưa được bao lâu thì giặc Minh xâm lược. Cha bị bắt, Nguyễn Trãi muốn làm tròn đạo hiếu nhưng nghe lời cha dặn đã quay về báo thù cho nước, rửa nhục cho cha. Bị giam lỏng ở thành Đông Quan, Nguyễn Trãi bỏ trốn tìm đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi dâng Bình Ngô sách. Từ đó, Nguyễn Trãi trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi, đưa cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh giành thắng lợi. Mùa xuân năm 1428, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo - một áng Thiên cổ hùng văn tuyên cáo độc lập dân tộc.

8
3
jhasdfhfksdfgsd ...
23/05/2019 20:20:17
Năm nay, nhà văn Tô Hoài đã bước vào tuổi 90, vượt xa cái ngưỡng nhân sinh thất thập cổ lai hi và sự nghiệp văn chương của ông cũng đã kéo dài suốt bảy mươi năm. Quả là một hiện tượng hiếm có không chỉ ở nước ta mà cả trên thế giới. Bút danh Tô Hoài trở nên quá thân quen đối với nhiều thế hệ bạn đọc, trong đó có tôi.
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 17 - 9 - 1920 ở quê ngoại, tức làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ ; nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Còn quê nội của ông ở làng Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Có thể gọi Tô Hoài là nhà văn của Hà Nội, vì ông sinh ra, lớn lên và gắn bó suốt cuộc đời mình với đất Thủ đô ngàn năm văn vật. Hình ảnh quê ngoại đã in sâu trong tâm khảm nhà văn, cung cấp tư liệu cho ông viết nên rất nhiều tác phẩm nổi tiếng.
Vốn có năng khiếu văn chương từ nhỏ nên Tô Hoài sáng tác từ khi mới hết tuổi thiếu niên. Nhà nghèo, không được học hành đến nơi đến chốn, Tô Hoài tự bù lại bằng cách lăn lộn học ở trường đời. Ông làm nhiều việc để kiếm sống như thợ thủ công dệt lụa, dạy học tư, kế toán tiệm buôn...
Vừa đi làm, ông vừa tranh thủ đọc sách báo và tập viết văn. Là một người nặng lòng với quê hương nên ông đã lấy bút danh là Tô Hoài (sông Tô Lịch chảy qua phủ Hoài Đức quê ngoại).
Đến với văn chương từ năm 1939 và Tô Hoài trở nên nổi tiếng sau thiên truyện Dế Mèn phiêu lưu kí. Được giác ngộ cách mạng, ông tích cực tham gia vào phong trào Thanh niên phản đế và đến năm 1943 gia nhập Hội văn hoá cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt Minh và viết báo bí mật. Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, trong hàng ngũ trùng trùng điệp điệp quần chúng vùng lên giành chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật cũng có mặt Tô Hoài.
Năm 1947, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí. Từ năm 1951, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam và đã giữ các chức vụ Tổng thư kí, phó Tổng thư kí Hội, kiêm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. Ông còn là đại biểu Quốc hội nhiều khoá. Tập Truyện Tây Bắc nội dung phản ánh hiện thực cuộc sống cơ cực, tăm tối và quá trình đến với cách mạng của đồng bào miền núi là kết quả chuyến đi ròng rã tám tháng của nhà văn trên khắp các nẻo đường chiến khu, chung sống và gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong tập truyện này, tác phẩm được nhắc đến nhiều và có giá trị nhất là Vợ chồng A Phủ, đã được trao giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 - 1955.
Kháng chiến chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, chấn động thế giới. Miền Bắc được giải phóng hoàn toàn. Đảng lãnh đạo nhân dân khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Nhà văn Tô Hoài có điều kiện thuận lợi để tập trung vào sáng tác. Ông đi nhiều, viết nhiều và thành công trong nhiều thể loại : truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, kịch bản phim, phê bình tiểu luận văn học...
Các tác phẩm chính trước cách mạng gồm: Dế Mèn phiêu lưu kí, Quê người, Cỏ dại, Nhà nghèo. Sau cách mạng gồm: Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Mười năm, Tự truyện, Chuyện cũ Hà Nội... Khoảng hơn chục năm trở lại đây, ông cho ra đời một số tác phẩm được dư luận rất quan tâm như Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chiếc áo tế... Tất cả những gì về lịch sử và hiện thực cuộc sống mà khối óc sáng suốt và trái tim nhạy cảm của nhà văn thu nhận được qua cuộc hành trình dằng dặc xuyên thế kỉ đã được tái hiện qua từng trang viết. Mỗi tác phẩm đều phản ánh những giai đoạn thăng trầm của dân tộc nói chung và của bản thân nhà văn nói riêng. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc, nhà văn Tô Hoài đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
Hồi mới học lớp 3, tôi đã say mê đọc cuốn truyện Dế mèn phiêu lưu kí, ngoài bìa vẽ chú Dế Mèn hăng hái trên con đường phiêu lưu mới mẻ và hấp dẫn. Tôi thích thú hoà mình vào thế giới của các sinh vật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Biệt tài kể chuyện của Tô Hoài đã thể hiện rất rõ trong cuốn truyện thiếu nhi này và người đọc có thể tìm thấy bóng dáng xã hội loài người qua tác phẩm. Lớn hơn một chút, tôi đọc Đảo hoang, Chuyện nỏ thần... Tôi cũng đã đọc "ké" của mẹ tôi - một giáo viên Văn Trung học phổ thông - khá nhiều tác phẩm của Tô Hoài như: Truyện Tây Bắc, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều... để rồi nhận ra rằng vốn sống của tác giả giống như một mỏ than tầng tầng lớp lớp, có trữ lượng vô cùng lớn, khai thác biết bao giờ cho cạn.
Tôi rất thích lối kể chuyện tự nhiên, dung dị, đặc biệt là nghệ thuật tả cảnh, tả người, tả tâm lí nhân vật... đã đạt đến trình độ bậc thầy của nhà văn Tô Hoài. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới. .
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài ít có tác giả nào sánh kịp. Vốn sống phong phú, trình độ hiểu biết sâu rộng, khả năng thiên phú và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, dẻo dai... đã tạo nên một tên tuổi được đông đảo bạn đọc yêu mến và kính trọng. Tôi vẫn mong tiếp tục được đón nhận những tác phẩm mới của nhà văn Tô Hoài - người đã vượt xa cái ngưỡng "thất thập cổ lai hi" mà sức sống và sức viết vẫn bền bỉ, dẻo dai, thật đáng khâm phục!

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
Gửi câu hỏi
×